Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian

15:46 20/04/2021

VÕ QUÊ   

Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).

“Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” gồm 19 tham luận của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh trong những lần ông được mời tham gia các hội thảo khoa học ở trong nước và quốc tế, tiếp tục khẳng định sự cống hiến không ngưng nghỉ trong công cuộc chung vì xứ Huế. Điều ấy phản ảnh rõ nét trong bài viết của nhà nghiên cứu văn hóa Huế Trần Thanh, một người bạn chí cốt của tác giả Hồ Vĩnh: “Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh sinh ngày 15/11/1959 tại phường Vĩnh An, Thành nội Huế, nay là phường Thuận Lộc, thành phố Huế; nguyên quán làng Vĩnh Xương, xã Điền Môn, huyện Phong Điền. Sau khi tốt nghiệp trường Trung học phổ thông Gia Hội, anh theo học lớp Đại học Báo chí thuộc Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội). Với các bút hiệu Dĩnh Quốc Anh, Quốc Anh hoặc ký tên thật là Hồ Vĩnh, từ năm 1989, anh đã bước chân vào nghề báo và tham gia cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí như Báo Lao Động, Tạp chí Sông Hương, Huế Xưa & Nay, Kiến thức Ngày nay, Báo Thừa Thiên Huế, Tập san Nghiên Cứu Huế v.v… Trong làng báo Hồ Vĩnh là một cây bút chuyên viết phóng sự về đề tài di sản văn hóa trong mối quan hệ với các vấn đề của cuộc sống đương đại và trong cái nhìn đa diện về xã hội và con người qua lăng kính thời gian. Anh đã vinh dự được Hội Nhà báo tỉnh Thừa Thiên Huế trao hai giải thưởng (1994, 1995), được nhận tặng thưởng về tác phẩm hay trên Tạp chí Sông Hương (1994), của Tạp chí Huế Xưa & Nay (1999). Một số bài phóng sự hay của ảnh đã được chọn in trong nhiều tập sách như tập phóng sự “Đôi nét miền Trung”, Nxb. Hội Nhà văn (1996.) Không chỉ viết phóng sự, anh còn tham gia viết kịch bản phim tài liệu cho Đài Truyền hình Huế như các phim “Bia đá cho đời” (1999), “Những người giữ bóng thời gian” (2001) v.v.

Điều đặc biệt ở Hồ Vĩnh là bên cạnh công việc viết báo, anh còn có thêm một sự nghiệp khác ở trên lĩnh vực sử học và nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế. Từ lúc còn niên thiếu, anh may mắn được thân phụ là cụ Hồ Quýnh, một người am tường tinh thông kinh sách dịch lý Nho gia tận tâm dìu dắt, dạy bảo về vốn cổ văn hóa dân tộc, cộng với sự nhiệt tình ham mê học hỏi, tự tìm tòi nghiên cứu nên anh đã tích lũy được nhiều kiến thức và tự nguyện dấn thân vào công việc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử văn hóa Huế bằng cả tấm lòng đầy nhiệt huyết và tình yêu say đắm. Anh thuộc lớp hội viên đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế năm 1994, là thành viên sáng lập nhóm nghiên cứu Đan Dương năm 2017”.

Khác với một số nhà nghiên cứu văn hóa Huế thường chỉ chú trọng vào nguồn tư liệu sách báo, ấn phẩm được lưu hành, gìn giữ trong các thư viện, tủ sách gia đình… nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh thực hiện nhiều chuyến đi khảo sát điền dã hữu ích ông đến những di tích lịch sử có nguy cơ chìm khuất để xác minh, góp phần phục dựng những giá trị văn hóa của cảnh quan, chứng tích. Hiện nay anh là thành viên sáng lập Hội Nghiên cứu và phát triển di sản Văn hóa Huế năm 2020.

Cũng từ phong cách nghiên cứu điền dã, trực tiếp thâm nhập thực địa, phỏng vấn các nhân chứng mà anh đã thu thập, lưu giữ được nhiều tư liệu quý báu, độc đáo. Hiện nay, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh được xem là người có bộ sưu tập tài liệu quý giá về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bộ sưu tập tư liệu về giáo dục với mong muốn đóng góp vào Bảo tàng Giáo dục Huế sau này. Nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh không những lưu giữ, bảo tồn mà bằng tấm lòng tha thiết yêu các di sản văn hóa dân tộc anh đã nhiệt thành hiến tặng nhiều hiện vật, tư liệu lịch sử quý hiếm cho các bảo tàng, cá nhân trong ngoài tỉnh, đồng thời tích cực tham gia ý kiến, cung cấp tư liệu cho các bảo tàng thực hiện các cuộc trưng bày di sản văn hóa Huế cũng như được mời báo cáo các chuyên đề về cổ vật, di tích lịch sử văn hóa Huế cho các lớp sinh viên. Ông còn tận tâm, nhiệt tình cung cấp tư liệu cho nhiều nghiên cứu sinh trong và ngoài nước để thực hiện các luận án tiến sĩ về đề tài di sản văn hóa Huế.

Với quá trình cống hiến, công tâm bằng trách nhiệm công dân, bằng tình yêu Huế lắng sâu trong sự nghiệp gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Huế, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh đã cùng nhóm tác giả được trao Giải Nhì (nhóm tác giả) Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thừa Thiên Huế lần thứ 9 (2019).

19 bài tham luận trong “Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian”, với văn phong mạch lạc, khúc chiết cùng những lượng thông tin chính xác, sự kiện quý giá được phát hiện, khám phá, nghiên cứu chắt lọc, tinh tế anh đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc Cố đô Huế.

Tài hoa, năng động, khiêm cung… với đức tính ấy, hy vọng và tin tưởng nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh sẽ còn tiếp tục phát hiện, khám phá những công trình, di sản khác từ Cố đô Huế văn vật, đẹp và thơ!

V.Q  
(SHSDB40/03-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)