Bây giờ, hội hè lễ lạc, các bà các cô lại đua nhau mặc váy. Nhớ lại câu ca dao:
Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải lột quần chồng sao đang
Có quần ra quán bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan.
Hồi đi học có lần tôi được nghe giảng rằng đây là tiếng nói của quần chúng chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã cưỡng bách nhân dân bỏ váy mặc quần.
Đọc những bài thơ trước 1945, nhất là của Anh Thơ. Chiếc váy thường xuất hiện bên cạnh chiếc yếm thắm, để tả nét duyên dáng của người con gái nông thôn miền Bắc, như:
... Các cô gái đội vàng hương, ôm váy.
Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua...
Hoặc:
... Mẹ rồi con xắn váy, cúi khom, và
Người vớt bèo, người khấu rau hái vội...
vân vân...
Mãi đến năm 1954, nhiều đồng bào miền Bắc vào Nam vẫn còn mặc những chiếc váy vải nâu, tuy không được đẹp như nhà thơ đã tả.
Chiếc váy đã gắn bó với phụ nữ miền Bắc như thế thì việc cấm váy bị phản đối là điều dĩ nhiên.
Xét cho cùng thì, váy có cái đẹp của nó, nhưng khi đi đứng làm lụng còn nhiều bất tiện. Vậy, việc dùng quân thay váy là một bước tiến về mặt khoa học cũng như thẩm mỹ y phục. Hơn nữa, Chúa Nguyễn từ khi muốn biệt lập một phương hẳn phải quyết làm sao cho tất cả Nam Hà có một bộ mặt khác hẳn Bắc Hà. Việc cấm váy, có thể nói là có ''một ý nghĩa chính trị" trong hệ thống ý đồ qua từng thời điểm từ các chúa đến các vua nhà Nguyễn.
Đại Nam Thực lục từ tiền biên đến chính biên, tuần tự chép:
- Năm Giáp Tý 1744, tháng tư, chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức lên ngôi vương sau 6 năm cầm quyền, châm chước chế độ các đời - đổi y phục, thay phong tục, dựng tôn miếu, phong quận công, định triều phục, chia đặt cả cõi làm 12 dinh...
- Năm Nhâm Tuất 1802, vua Gia Long cùng thầy tôi bàn về phong tục. Vua nói: Dân Bắc Hà thì kiểu quần áo cũng không đẹp. Phải nên một phen sớm định mới có thể đồng nhất phong tục. Nhưng sửa đổi phong tục cũng phải dần dần.
- Năm Mậu Tý 1828, vua Minh Mạng cho đổi lối quần áo tự sông Gianh ra Bắc. Trước đây Thanh Nghệ và Bắc Thành tâu: Sĩ dân các hạt đều muốn đổi quần áo theo cách thức như người từ sông Gianh về Nam. Triều đình bèn nhắc lại ý của vua Gia Long (như trên), vua khiến dụ khắp hẹn đến đầu mùa xuân sang năm phải thay đổi một loạt.
Như vậy, việc thay đổi y phục đã bắt đầu từ đời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, vua Gia Long khi mới lên ngôi cho tiếp tục thực hiện dần dần và đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828) mới có quyết định dứt khoát.
Chiến Quốc sách cũng có chép một chuyện thay đổi y phục, tận bên Tàu, ngày xưa... Vũ Linh vương nước Triệu muốn thôn tính Hồ, Địch, đã quyết định dùng y phục của người Hồ cho tiện lợi hơn. Bị triều thần phản đối, ông nói: Ta có ý bận Hồ phục không phải là để dúng tục cầu vui, lý do là muốn làm nên sự nghiệp, việc nên công thành rồi thì sau mới thấy được cái đức của ta... Y phục cốt sao tiện cho việc sử dụng, lễ pháp cốt sao tiện cho việc thi hành... Theo lời trong sách mà đánh xe thì là không hiểu thấu tình ý của ngựa, theo thời xưa mà chế định thời nay thì là không rõ sự biến đổi của thế tình...
Vua Minh Mạng cũng đã kiên quyết như Vũ Linh vương để rồi có người làm ca dao bêu riếu ông.
Phải chăng câu ca dao này là sáng tác của những người cứ khư khư muốn giữ lấy chiếc váy cũ, rồi người đời sau, với quan điểm cố chấp, cho mọi việc của triều đình nhà Nguyễn đều là sai trái hết; bèn gán cho nó tư tưởng chống phong kiến của quần chúng.
Nếu suy nghĩ này có phần đúng thì tưởng nên dành cho vua Minh Mạng một điểm khuyên son: khi cần đổi mới ông đã không ngần ngại gạt qua một bên búa rìu của những người - có thể là sĩ phu bất thức thời - bảo thủ mong hướng dẫn dư luận dưới chiêu bài văn chương phản kháng!
T.H.A
(TCSH59/01-1994)
Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu”
Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.
Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.
LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.
NGUYỄN XUÂN HOA
Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.
Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.
Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.
PHÙNG TẤN ĐÔNG
“Đời của nó như thể bềnh bồng
Cái chết của nó như thể an nghỉ”
F.Jullien
(Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)
THANH TÙNG
Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.
“Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).
VƯƠNG TRÍ NHÀN
I
Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.
Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.
THẾ TƯỜNG
Ký
"Quê hương là chùm khế ngọt
cho con trèo hái cả ngày"
Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế.
Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…
LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.
Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)