Chuyện ở rừng mai vàng

16:21 21/07/2010
HỒ NGỌC DIỆPKhông biết ai đã trồng rừng mai ở làng Đông Dương nầy lúc nào? Khi chúng tôi lớn lên thì đã thấy nó. Ngày trước, cứ đến tết xuân sang, người Ba Đồn lên, người Hướng Phương xuống, người Quảng Hợp, Quảng Kim vào, cứ theo sở thích mà cắt, mà chặt mai đưa về cắm độc bình. Cứ thế, mai mỏi mòn, xơ xác. Có cây chỉ trơ lại gốc. Có cây chỉ còn thân, cằn cỗi, khẳng khiu.

Minh họa: Bửu Chỉ

Đúng ngày Bác Hồ phát động tết trồng cây đầu tiên, cô giáo dạy cấp I chúng tôi đưa chúng tôi đến trồng tại rừng mai đó.

Bọn con gái thì đào hố bỏ phân và tưới nước. Bọn con trai chúng tôi thì đi bứng những cây mai con mà hạt già rụng xuống ở những kẻ đất ẩm mọc lên đưa đến trồng và then che, rào dậu. Rồi ngày ngày, theo sự phân công của cô giáo, chúng tôi đã thay phiên nhau tưới nước, vun xới cho mai. Khi chúng tôi học lớp cuối cùng của cấp III trường huyện thì mai đã ra hoa lượt đầu tiên. Đã thôi rồi lối chặt mai bừa bãi như những năm trước đây. Những cây mai vừa lớn bên những cây mai cổ thụ đan thành rừng mai. Mùa xuân đến, mai nở vàng trời, mai rụng vàng đất. Cánh mai chấp chới trong gió như hàng ngàn hàng vạn cánh bướm vàng. Hương mai nồng nàn, ngào ngạt. Đứng dưới rừng mai tưởng như đang đứng ở một chốn thần tiên! Làng Đông Dương vì thế mà có người gọi là làng "Hoàng Mai" (Làng mai vàng). Có một người hay thơ yêu một cô gái trong làng "Hoàng Mai" và để kỷ niệm nơi bắt đầu của một tình yêu giàu chất thơ mộng, anh đã ký dưới những bài thơ tình yêu nổi tiếng của mình với bút danh: Mai Liên (Rừng mai đã kết tất cả lại). Chúng tôi rất yêu thơ Mai Liên, vì trong đó có rất nhiều hương sắc của rừng mai vàng chúng tôi.

Không hiểu vì sao cô giáo của tuổi nhỏ chúng tôi không lấy chồng. Có một độ xuân chín, mai nở vàng rực, cô đã lên công sự cùng dân quân ở rừng mai nhả đạn vào máy bay Mỹ đang bắn phá một địa điểm của đơn vị bộ đội ra-đa đóng gần đó. Phát hiện được hỏa lực lợi hại, giặc Mỹ đã trút đạn xuống rừng mai. Khi biết tin cô giáo hy sinh trong cuộc chiến đấu đó, chúng tôi đến thăm thì mai đã rải thảm vàng nấm mộ. Rừng mai đã ôm ấp, chở che cho giấc ngủ ngàn năm của cô. Và từ đó, đi đâu xa về, chúng tôi đều ghé đến thăm cô. Hương trầm quyện trong hương mai gợi biết bao nỗi niềm của người đang sống với người đã khuất. Chúng tôi đã đọc và chép cho nhau bài thơ "Hương mai" của Mai Liên. Nhà thơ đã viết tặng hương hồn cô giáo chúng tôi với một niềm rung cảm sâu xa, tha thiết nhất.

Những ngày tột cùng tội ác của chiến tranh phá hoại Giôn-xơn, một bệnh viện đã đến trú ngụ dưới rừng mai vàng làng Đông Dương này. Những ngôi nhà chôn mình trong cát. Rừng mai xanh, sáng chiều tỏa bóng ôm trọn những mái nhà. Dưới rừng mai đó, bao sinh linh đã sống lại. Dưới rừng mai đó, bao em bé đã oa oa chào đời. Cô bạn gái học cùng lớp tuổi nhỏ của tôi bấy giờ là y tá của bệnh viện này. Cô có cái tên rất đẹp: Thùy Mai.

Một buổi sáng, từ hầm mổ bước ra sau một đêm phục vụ cho ca mổ đẻ một người mẹ hở van tim được mẹ tròn con vuông, thì Thùy Mai cùng các bác sĩ tiếp tục đón tiếp mấy cái băng ca nữa ùn ùn chuyển tới. Đêm qua, loạt bom tọa độ dội xuống một làng bên bến phà Gianh. Cả sáu người trong một gia đình bị sập hầm chết nghẹn, chỉ cứu được cháu gái chưa tròn năm. Có lẽ người mẹ đã ôm chặt con vào lòng nên cháu gái chỉ bị chấn thương nhẹ. Người ta đã nuôi cháu bằng sữa bò và bột dinh dưỡng. Nhưng bất kỳ đứa trẻ nào cũng cần có một người mẹ mới có thể đảm bảo cuộc sống lâu dài. Thùy Mai đã nhận nuôi đứa bé. Khi lên ba, bé gái đã biết bập bẹ gọi: "Mẹ! Mẹ Thùy Mai!".

Đầu năm 1972, có một chuyến xe quân sự từ chiến trường Tây Nguyên ra Bắc, vượt được phà Gianh độ mười cây số, xe hỏng nặng. Người lái xe cho biết: ít ra đến hết đêm nay anh mới có thể chữa xong xe. Trung úy bộ binh Dương Trúc sau khi được đoàn trưởng đồng ý đã đi tắt đồng cát từ quốc lộ I để đến rừng mai làng Đông Dương. Nhà anh giờ sơ tán cách chỗ xe dừng không xa; ở hướng Đông nhưng anh lại đi thẳng hướng Tây. Anh đã nói với đoàn trưởng của mình: "Tôi đến đó để thăm mộ một cô giáo cũ. Chính cô đã giúp cho tôi…" Anh không nói hết ý nhưng đoàn trưởng đã hiểu.

Anh cất mũ, đứng lặng yên trước nấm mộ cô giáo ngày tuổi nhỏ dưới rừng mai. Đang độ xuân, mai rắc vàng lên vai anh, lên lớp cỏ xanh phủ trên nấm mộ. Hương mai thoảng đưa trong gió, gợi những nỗi niềm nhớ thương… Nếu không có tiếng ru con à ơi vọng ra từ một nhà hầm gần đó thì không biết trung úy bộ binh Dương Trúc sẽ đứng trầm ngâm như thế trong bao lâu.


Tiếng ru con à ơi… đã làm anh bừng tỉnh. Không! Không thể nào khác được, đó là tiếng ru con của Thùy Mai! Anh bước tới phía nhà hầm. Qua khe cửa sổ, dưới ánh đèn phòng không tù mù đặt kín đáo ở góc nhà, anh nhận ra được Thùy Mai đang nhẹ nhàng đẩy võng ru con.

- Hãy gõ cửa - Anh nghĩ.

- Đừng! - Một tiếng nói khác từ trong anh dõng dạc vang lên.

Anh đã cố quên đi cô gái ấy, cô gái lần đầu tiên đã làm cho trái tim anh rung động. Tình bạn học cũ đã chuyển sang tình yêu từ bao giờ anh chẳng rõ nữa. Đêm trước lúc anh lên đường nhập ngũ, Thùy Mai đã đến với anh với những nỗi xao xuyến, ngập ngừng. Anh đã đặt chiếc hôn đầu tiên lên môi người yêu khi Thùy Mai ngả người vào ngực anh, ngay dưới rừng mai này. Lúc đó những cánh mai trong gió khẽ đưa hương, báo tin bắt đầu từ ngày mai, xuân bước vào độ chín. Bảy năm trời, anh không nhận được một lá thư nào của Thùy Mai. Có lẽ vì ở chiến trường anh không có một địa chỉ rõ ràng. Nhưng tin đầu tiên về Thùy Mai đến với anh qua lời một đồng chí trong đơn vị mới hành quân từ Bắc vào là dòng tin dữ dội: "Thùy Mai đã lấy chồng, vì tôi thấy cô ấy đã có con".

"Cô ấy đã có con", anh nửa tin nửa ngờ. Nhưng trước mặt anh giờ đã là sự thật, không thể ngờ mà phải tin. Và Thùy Mai thì đang chao võng và cất tiếng à ơi… kia:

Trúc với Mai, Trúc đi Mai nhớ!
Trúc trở về, Trúc nhớ Mai chăng?

Một câu hát ru đã được cải biên lời. Anh nhớ rất rõ mẹ anh đã ru anh thuở nhỏ, chính câu hát phải thế này:

Trúc với Mai, Mai về Trúc ở
Trúc trở về, Mai nhớ Trúc không?

Trung úy bộ binh Dương Trúc cứ đứng như vậy để nghe những lời hát ru của cô gái vọng ra. Chợt anh nghĩ, nếu có một người nào đó từ đâu tới và thấy anh đứng đây, người ta sẽ cho anh là một đứa kẻ trộm đang nghe ngóng, rình mò, và sẽ lôi thôi hơn nữa nếu chồng Thùy Mai ở đâu đó bước về, chạm mặt anh đang đứng lặng ở đây.

Anh xóa dấu dày rồi khẽ quay gót. Khi anh trở lại quốc lộ I, xe cũng vừa chữa xong. Mới quá nửa đêm, xe rồ máy thẳng hướng đèo Ngang, chồm tới.

Cuối mùa đông năm này, tình cờ tôi lại gặp nhà thơ Mai Liên tại Hà Nội. Anh vừa bước ra từ trụ sở một nhà xuất bản với nét mặt rạng rỡ. Anh kéo tôi ngồi xuống ghế đá ở một vườn hoa gần đó, giọng rất hể hả:

- Nếu không có anh, chưa hẳn tôi đã hoàn thành tiểu thuyết đầu tay này. Với những gì tôi đã biết về rừng mai vàng ở quê vợ, và câu chuyện tình dưới rừng mai vàng ấy của bạn anh: Thùy Mai và Dương Trúc mà anh đã hồ hởi kể cho tôi nghe 5 năm về trước lúc tôi đang theo học lớp đại học hàm thụ văn khoa, tôi đã soạn, đã viết, mãi hôm nay mới hoàn thành. Cảnh thực, người thực, việc thực bước vào trang sách… như thực. Tên bài thơ "Hương Mai" dạo trước tôi đã lấy làm nhan đề cuốn tiểu thuyết này.

Rồi với những phấn chấn mới mẻ, anh tiếp lời mình một cách say sưa:

- Nhân vật của tôi: Dương Trúc và Thùy Mai, sau đó đã thông hiểu nhau, xây dựng hạnh phúc sau ngày đất nước thống nhất. Ngày cưới của họ đúng độ xuân chín, mai vàng cắm đầy bàn giữa hai họ, hương bay ngào ngạt. Đứa con nuôi là đứa con chung của họ. Cô ấy sẽ là một bác sĩ nổi tiếng trong tương lai.

- Rất đáng tiếc, cuộc đời của họ không như anh tưởng tượng. Tôi ngắt lời anh.

Nhà thơ Mai Liên sửa lại đôi kính cận, há mồm nghe những lời chậm rãi của tôi sau đây:

- Họ không gặp lại nhau và không bao giờ lấy nhau. Sau ngày đất nước thống nhất, không hiểu do đâu mà Thùy Mai có rất nhiều bạn bè, loại người chuyên bán buôn, móc nối. Ít lâu sau thì Thùy Mai tự bỏ nghề và đi buôn. Cô ta đã lấy một anh chàng thợ may chết vợ, giàu sụ nhưng nát rượu. Họ chửi nhau suốt ngày, Thùy Mai sẵn sàng làm bất kỳ điều gì, miễn hái ra tiền. Mùa xuân năm ngoái chính cô ta đã đến rừng mai vàng làng Đông Dương cùng một bọn xấu khác trộm cành mai đưa về bán ở chợ Ba Đồn, bị công an phát hiện, giữ lại mấy hôm.

- Thế còn anh Dương Trúc? Nhà thơ Mai Liên sốt ruột hỏi tôi.

- Dương Trúc bạn tôi, đã trở về quê hương sau ngày Thùy Mai lấy chồng. Nhưng chiến tranh đã cướp của anh một bàn chân phải trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1972. Anh chưa lấy vợ, nhận chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ ở rừng mai vàng quê anh, ở đó còn có nấm mồ cô giáo tuổi nhỏ của chúng tôi.

Vẫn bằng giọng chậm rãi, tâm tình, tôi kể tiếp cho anh nghe:

- Đứa con nuôi của Thùy Mai năm nay là một học sinh giỏi văn của trường phổ thông Trung học Ba Đồn. Cháu vẫn ở với Thùy Mai, mặc dầu có người chú ruột ở Huế tha thiết muốn đưa cháu vào sống với gia đình mình. Lần gặp lại cháu gần đây, cháu đã nói với tôi: "Cháu không thể từ bỏ người đã nuôi cháu từ cái ngày gia đình cháu gặp điều bất hạnh, mặc dầu người đó hiện nay cháu chẳng thích tí gì. Nhưng nhất định mọi cái tốt đẹp sẽ lại đến, nhất định sẽ lại đến!"

Nhà thơ Mai Liên đứng dậy, lững thững đi bên tôi dọc hàng cây cơm nguội. Bỗng dưng nét mặt rạng rỡ, hả hê, phấn chấn của anh lúc nãy biến mất. Anh trầm ngâm, thỉnh thoảng đưa tay lên sửa lại đôi kính cận. Tôi đoán, chắc lúc đó anh đang nghĩ về trang sách anh đã viết và con người thực ngoài đời.

Tôi chia tay anh để còn chuẩn bị thêm mấy thứ cho chuyến trở lại quê hương trong dịp xuân mới này, khi con tàu Thống nhất độ hai giờ nữa sẽ rú còi rời ga Hàng Cỏ. Tôi sẽ đến rừng mai vàng làng Đông Dương quê tôi mà ngắm hoa nở, mà ngửi hương say, mà nhìn cánh mai, như trăm nghìn cánh bướm vàng vờn trong nắng ấm. Tôi sẽ đem đến cho bạn tôi, anh thương binh Dương Trúc một chiếc chân giả loại mới có những thiết bị tự động mà tôi mua từ nước ngoài về với một giá khá đắt. Với chiếc chân giả có những thiết bị tự động này, anh ấy có thể dễ dàng đi trên cát rừng mai vàng và đến từng nấm mồ liệt sĩ nhổ từng cây cỏ, kẻ lại dòng mộ chí, trong đó có nấm mồ cô giáo tuổi nhỏ của chúng tôi. Và chắc chắn, các cháu học sinh của trường cơ sở Quảng Phương dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo sẽ đến trồng thêm những cây mai trên đồng cát, đan thêm dày rừng mai như chúng tôi trước đây đã đến trồng trong ngày tết trồng cây nhớ Bác Hồ.

H.N.D
(2/8-83)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI BÁ TÂNTháng trước, ở phường B. thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này.

  • PHẠM THỊ ANH NGA                  Truyện ngắn...trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào biết được...

  • PHAN VĂN LỢIBuổi giao lưu và trao giải thưởng cho các tác giả đoạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do Hội Nhà văn tổ chức đã tiến hành được gần nửa giờ. Gã nhấp nhỏm trên chiếc ghế kê phía sau cánh gà sân khấu, bồn chồn không yên. Chừng thông cảm với tâm trạng của gã, cô gái phục vụ mặc áo dài đỏ bưng tới cho gã ly nước, nhẹ nhàng nói: "Chú cứ yên tâm ngồi nghỉ cho khoẻ. Giải A bao giờ cũng trao cuối cùng, chú ạ!"

  • KHẢI NGUYÊN Pa-ri, mùa hạ năm 198...Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pa-ri trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNhiều năm trôi qua tôi đã trở thành người đàn ông đứng tuổi. Có một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Nhưng mỗi lần nghĩ về nàng, một người đàn bà chỉ kịp quen trên chuyến đò từ Huế ra Phong Điền, chia tay nàng để nhiều năm sau, tôi mới được gặp lại nàng trong một hoàn cảnh khác, tôi vẫn giữ nguyên một cảm giác hết sức lạ lùng. Một ý nghĩa luôn ám ảnh tôi khá kỳ quặc rằng: Tôi đã bị nàng hiểu lầm, là một chàng lính giải phóng “hám gái, dại khờ”... Bởi vì sau vụ việc ấy, chính tôi cũng rủa thầm mình là ngu ngốc.

  • NGUYỄN VIỆT HÀVọng đi vào núi. Tại sao phải đi vào núi thì Vọng mong manh biết, còn sẽ đi vào núi như thế nào thì anh không biết. Nắng của chiều ngần ngừ trên một đường mòn và đường mòn heo hút cỏ dại đến đây thì chia hai.

  • HÀ KHÁNH LINHGiáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân thường nói với các sinh viên của mình thuở còn ấu thơ bà tin những chuyện cổ tích là có thật, từ đó bà đã sống và hành động theo tinh thần cổ tích. Khi đã thành danh, bà thường ngẫm nghĩ đối chiếu mình với các nhân vật trong cổ tích. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy chuyện cổ tích đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của một con người như giáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân. Càng ngạc nhiên hơn, khi biết rằng những chuyện cổ tích bà được nghe kể khi còn nhỏ không phải do ông bà nội ngoại, không phải do cha mẹ...

  • HƯỚNG DƯƠNGTết đã gần đến rồi. Những ngày này mọi người chỉ nghĩ đến một việc là chơi gì trong ngày Tết? Trước đây, cuộc sống thiếu thốn thì Tết là dịp để ăn uống cho no say đầy đủ - Vậy mới gọi là ăn Tết. Còn giờ, mọi sự dinh dưỡng thừa mứa, đàn ông bụng phệ nhan nhản, đàn bà đi hút mỡ thường kỳ, bệnh béo phì của trẻ em gia tăng. Ăn uống là kẻ thù của con người. Vậy nên, Tết không còn là ăn Tết nữa mà là vui Tết, chơi tết.

  • PHẠM ĐÌNH TRỌNGChưa bao giờ Ngay có ý nghĩ rời Hà Nội đến sống ở vùng đất khác thế mà anh đã đột ngột đưa cái gia đình bé nhỏ không còn nguyên vẹn của anh đi vào thành phố phía Nam cách Hà Nội ngót hai ngàn cây số. Anh đi như chạy trốn để rồi càng ngày anh càng nhớ quay quắt nơi anh đã để lại cả một thời tuổi trẻ đẹp đẽ.

  • THU NGUYỆTTrắng và trắng. Muột thơm và tinh khiết. Mặt đất dường như đỏ và mịn hơn khi được trải mình ra đón nhận sự nương tựa dịu dàng của những cánh hoa sứ ấy. Tôi khẽ khàng nhặt một bông sứ nhỏ, không đưa lên mũi ngửi như thói thường mà trang trọng áp vào tai. Trong làn hương tràn ngập, tôi nghe vẳng tiếng chuông ngân đẫm mát. Ai đó ơi, hãy một lần thử xem, nhặt một bông sứ nhỏ sân chùa, nhè nhẹ áp vào tai, sẽ nghe thấy những âm thanh và làn hương kỳ diệu! Cái cảm giác lạ lùng mà tôi đoán chắc rằng ai đó sẽ bất ngờ thấy mình khác hẳn đi.

  • PHẠM THỊ ANH NGAVới tôi mạ không có công ơn mang nặng đẻ đau, nhưng mạ đã thực sự ban cho tôi sự sống: sau khi lần lượt sinh bốn người con gái đầu lòng, lần thứ năm chín tháng cưu mang và "vượt cạn mồ côi một mình" mạ đã sinh ra anh, người sau này sẽ là "một nửa" của đời tôi.

  • PHẠM THỊ XUÂNTừ ngày Hoạt được đề bạt lên phó giám đốc, Mùi bắt đầu tiến hành một cuộc cách mạng trong gia đình. Nhìn vào đâu, vào cái gì, Mùi cũng chưa thấy nó xứng đáng với địa vị mới của chồng. Ngôi nhà ba gian vừa xây cách đây không lâu, bây giờ nó đã trở nên lạc hậu trong mắt Mùi. Mùi nghĩ, giá như hồi ấy mà làm theo kiểu nhà hộp thì bây giờ có phải đã lên thêm được một tầng như một số người quanh đây không.

  • HƯƠNG LANTuấn nhìn đồng hồ, rồi lại đi lui, đi tới không biết là lần thứ bao nhiêu trong buổi sáng này trên hành lang của Tòa án nhân dân Thành phố. Vẫn còn 5 phút nữa mới đến giờ, nhưng Tuấn có cảm giác giận Hương, có lẽ cô ta không đến, cô ta muốn gây khó dễ cho mình... Tuấn thầm nghĩ và lòng anh hiện lên một chút đay nghiến với người phụ nữ đang còn là vợ anh trong vài tiếng đồng hồ nữa.

  • BÙI MINH QUỐCNgày hôm ấy là một ngày không có gì đặc biệt trong cuộc sống cực nhọc, buồn tẻ của giáo sư Lê Khương- một ông già ngót sáu mươi tuổi mà vẫn sống độc thân. Nhưng rồi có một sự đặc biệt đến với ông vào lúc gần nửa đêm. Sau khi rà sửa lại lần thứ ba mấy chục trang cuối tập bản thảo một công trình mới nhất của mình, giáo sư đặt lưng xuống giường ngủ thiếp đi. Và, như thường lệ, ông bắt đầu thấy chiêm bao.

  • DƯƠNG THÀNH VŨBuổi sớm maiSông thức dậyMột mìnhTrôi mải miết    (René Char)

  • ĐOÀN BÍCH HỒNGBà lão ngồi bất động nơi cây cầu giơ một khúc gỗ khẳng khiu đỡ lấy sàn nhà. Trong lúc liếc nhìn bóng mình lao chao trong cái màu xanh rêu đùng đục của dòng sông đang gắng gỏi vài mét nước cuối cùng trước khi nhập vào lòng biển, bà cố ghi nhận cái thời khắc quan trọng mà bà cảm thấy nó đang đến gần.

  • NHƯ BÌNH1. Đực và cái. Một đứa con trai đứng bên một đứa con gái là giống đực đặt bên giống cái. Còn nhỏ chúng là những đứa trẻ, không ngại ngùng bởi vấn đề giới tính. Trưởng thành, hai giống bên nhau tạo sức hút và nảy sinh cái gọi là tình yêu. Các cụ ta xưa rất hiểu quy luật giới tính này. Chả thế mà cứ nhốt hai giống vào một phòng là thành vợ chồng.Bố mẹ tôi cũng là một cặp như thế.

  • NGUYỄN VĂN ĐỆThuần ra bến thuyền vào lúc thuỷ triều đang lên. Lúc này là nửa đêm. Trăng hạ tuần trong như con cá mòi tháng bảy nhảy hất lên từ mặt biển treo mình giữa nền trời xanh ngát. Gió tây se lạnh, gió thổi từ đất liền ra giộng rừng phi lao reo lên cùng với tiếng vi vu, vi vút, gió thổi vào ngọn sóng làm hắt lên những tia sáng.

  • NGUYỄN THANH MỪNGĐã bát tuần, ông vẫn chưa nghĩ đến cái già. Đó là ông nói vậy, bô lô ba la trước bàn dân thiên hạ, trong đó tất nhiên không thiếu cả bạn bè, nhất là những người đáng tuổi con cháu nhưng được ông tôn vinh là thần tượng của quốc gia, thậm chí quốc tế nữa.

  • NHẤT LÂM          Truyện ngụ ngôn hiện đạiTrong đàn chó săn của ông Mỗ thì Fóc vào loại anh cả đỏ. Ngoài chân cao, mũi thính, mình dài, chạy như tên bắn... nói chung những gì cần cho một con chó săn đích thực thì Fóc có cả.