NGUYỄN TRÙNG DƯƠNG
Hầu như từ muôn thuở, trên thế giới, con người vẫn thích nhìn trò đấm đá nhau.
Ảnh: internet
Người đấu người đến chết như các lực sĩ giáo đầu ở La Mã, người đấu vật đến chết như trò đấu bò rừng ở Tây Ban Nha, vật đấu vật thì nhiều vô kể: chơi đá chim, đá cá, chọi dế, chọi trâu, voi hổ đấu chiến v.v... nhưng có lẽ đá gà là môn chơi phổ biến được nhiều người say mê và ưa thích nhất ở nước ta.
Người Huế cũng rất ham thích nuôi gà chọi và xem đá gà:
Hẳn là thú chơi gà chọi ở Huế đã có từ lâu, nhưng phát triển mạnh là từ đời Thiệu Trị. Hầu như tất cả các hoàng tử con vua Thiệu Trị đều thích chơi gà chọi, ngoài thú làm thơ, xem tuồng, bắn chim. Các ông hoàng khi được xuất phủ lúc 18 tuổi lại còn có điều kiện hơn để theo đuổi nghệ thuật chơi này.
Tùng Thiện công Miên Thẩm cùng con là Hồng Phì rất ham chơi gà chọi. Trận đấu gà chọi dậy tiếng khắp đế đô giữa con Xích long của gia đình Tùng Thiện công với con xám của Trung quân đô thống Đoàn Thọ là một trận đấu ác liệt chưa từng có. Mặc dù con Xích Long đã bị con Xám đá mù cả hai mắt vẫn quyết chiến không lùi, cuối cùng đã lựa thế, nghe gió để đá rách diều, kéo cổ con Xám xuống, đá thốc một đòn sấm sét vào ức; Xám phải kêu quang quác tháo chạy ra khỏi xới trường. Nhưng con Xích Long đã gục chết trong tay chủ. Đó là số mệnh của nó. Tướng của Xích Long là gà thần, bách chiến bách thắng vì có một lông voi ở đuôi, song nó có một cái mống ở đuôi mắt nên không tránh khỏi tay tử thần.
Tả quân Lê Văn Duyệt là một kê sư, có viết cuốn sách chuyên về nghệ thuật xem tướng gà là Kinh kê. Trong các loài thú, xem tướng gà chọi tinh vi là khó khăn hơn cả. Sau khi ông Duyệt, qua án văn tự của Nguyễn Văn Thuyên, đã hại ông Nguyễn Văn Thành đến bức tử, dân Huế ghét cái trò xúc xiểm giữa những người đồng sự với nhau, mới truyền miệng hai câu:
Nhất gà trống không mồng
Nhì đàn ông không c...
Để ám chỉ hoạn quan Lê Văn Duyệt. Sự thật, gà trống không mồng đá độc vì có lợi thế, địch thủ không thể dùng mỏ thộp mồng để dúi đầu mà đá thốc lên. Cú đá có thể làm cho địch thủ bị ngã quay giữa xới trường chờ chết.
Qua các triều vua Nguyễn, chọi gà vẫn được nhiều ông Hoàng say mê. Ông Hoàng Mười, em Thành Thái đã lập một đấu trường chọi gà ngay trong phủ của mình. Đấu trường vẫn tồn tại đến những năm đầu thế kỷ XX. Mệ Ung Tương, con An Thành Công, cháu nội vua Thiệu Trị, có con gà chọi quý giá thuộc loại gà tài, có nhiều cú gà độc, nhiều người hỏi mua với giá cao đến mấy cũng không chịu bán. Mệ nhốt vào lồng, đặt trong một cái buồng, khóa hai ba lượt, thế mà kẻ trộm dò xét được, ban đêm trèo lên mái ngói, phá mái chui xuống bắt trộm. Mệ Bửu Khởi cũng là người rất am tường nghệ thuật nuôi và đúc gà chọi, đã tạo được nhiều con gà chọi nổi tiếng gà tài, là loại gà có nhiều thế đá hiểm hóc.
Trong số những ông hoàng say thú chọi gà, có lẽ Hải Ninh quận công có số phận hẩm hiu nhất.
Đương thời, Hải Ninh quận công thích nhất hai thứ: xem hát bội và chọi gà. Công đã lập một ban hát gia đình mà các diễn viên chính là các bà vợ hầu của ông. Nhưng là một người phóng túng, lãng tử, ăn chơi trác táng, Công đã phá hết sản nghiệp, cuối đời phải sống trên một chiếc noốc nuôi lợn, lại chết giữa trường gà, khi chết rồi, nhà quá nghèo túng, không đủ tiền mua vải liệm nên phải thay bằng áo giấy. Cụ Tiểu Thảo Hồng Thiết có vịnh một bài thơ sau:
"Mới nghe tiếng hát bữa hôm qua
Đau đớn làm sao đến thế mà.
Sống ở lui cui bên noốc lợn.
Chết nằm lăn lóc giữa trường gà
Ba sinh duyên phụ cùng dì Đá(1)
Chín suối tình chung với mụ Na(2)
Chẳng biết nhà ngài sao đến thế.
Mang hia đội mão của ông bà"
Nếu các ông Hoàng ham thích gà chọi, để lại nhiều kỳ tích trong việc luyện gà, thì dân gian xứ Huế cũng có nhiều tay chơi lão luyện không kém.
Người mê mẩn với thú đấu gà chọi nhất ở Huế có lẽ là ông Ba gà. Đây là tên ghép của người Huế đặt cho ông. Đâu có đấu gà, ở đó có Ba gà. Suốt cuộc đời ông là ở các xới gà, từ sáng sớm đến tối mịt. Ông tuy không phải là một tay đúc gà chọi, nhưng là một tay thiện nghệ trong nghề vô nước, om bóp gà chọi sau một hồ đá (khoảng mười phút). Chẳng phải ai cũng có tài này, mỗi nghề có một nghệ thuật riêng. Ông Ba gà theo các chủ gà, với nghề này, ông đủ sống phong lưu suốt đời cho đến lúc nhắm mắt thọ gần 100 tuổi.
Những nhân vật tiếng tăm khác của nghề chơi gà chọi ở Huế là ông đốc Thuật, ông đốc Sanh, hai nhà giáo; ông Mùi ở Bao Vinh, ông chủ tiệm cà phê Lạc Sơn và ông Đệ, chủ rạp hát Tân Tân ở đường Trần Hưng Đạo. Những người này đã tạo được một giòng gà riêng, có những thế đá hóc hiểm, độc đáo. Giòng gà Lạc Sơn, giòng gà ông Độ có tiếng vang ngoại tỉnh. Riêng ông Đệ khi vào Nha Trang, trở thành một chủ nuôi gà chọi lừng lẫy ở Nha Thành. Khắp nơi trong nhà ông, san sát những chuồng gà chọi.
Hai tay chuyên viên về chăm sóc gà trong khi giao chiến hiện còn ở Huế là hai anh Mai và Lự, sau mỗi hồ, các anh chuyên khâu mắt, khớp mỏ, chăm sóc gà, như những bác sĩ chuyên môn. Chẳng ai thạo nghề bằng hai anh này, tại xới trường gà chọi của ông Dĩnh ở An Hòa còn lại hiện nay ở Huế.
Cho đến sau giải phóng 1975, dân Huế vẫn còn ham thích chọi gà. Trận đấu huyết chiến kỳ phùng địch thủ vang danh nhất là trận đấu ở sân nhà anh Nguyễn Trọng Nhân năm 1976, giữa con gà Bông ngũ thể mao của anh Lê Văn Kinh ở chợ Xép với con Ô Tía của anh Thanh. Con Ô Tía đã ăn mấy độ trong Đà Nẵng, còn con Bông đang hồi sung sức, vừa mới lắt tai chưa lành hẳn.
![]() |
Trong hồ đầu xung trận (giao nạp), con Bông đá rất bay bướm, Ô Tía thủ thế, chờ sơ hở của địch thủ để tung đòn.
Sau năm phút nghỉ, sang hồ hai, giữa hiệp chưa có gì lạ xảy ra. Bỗng nhiên, do thanh niên quá sung sức con Bông dùng mỏ chụp đầu Ô Tía, quất một cú khấu đầu như trời giáng, con Tía chúi đầu quay như chong chóng mấy vòng quanh xới gà. Vì dùng lực quá mạnh nên chính con Bông cũng bị trấu (khớp mỏ), chân phải bị gãy quặp. Hồ thứ hai dứt trong tình trạng cả hai đều bị thương tích nặng: Ô Tía bị chớm cần cổ, con Bông khớp mỏ, gãy chân.
Sang hồ ba, con Bông dùng chân phải trụ, tuy mổ bắt không dính, nhưng nó bay qua bay lại dùng chân trái đá. Ô tía chớm cần cổ, mệt lữ, nằm giữa hồ đấu chịu trận. Mỗi lần thấy con Bông xẹt qua, xẹt lại, lông nó dựng đứng lên, máu trào ra miệng. Nó có sức bền không thể tưởng tượng được.
Cứ thế, qua hai mươi hồ giao đấu, khởi từ 8g sáng đến 6g chiều, con Bông vẫn dùng một chân để đá. Ô Tía vẫn nằm lỳ chịu đòn. Cả hồ trường vang lên tiếng gào: "Lý Tiểu Long, Lý Tiểu Long".
Lý Tiểu Long xẹt như chớp qua đầu Ô Tía, Ô Tía cứ giữ vững tư thế nằm lỳ chịu trận, máu đầm mình, nhưng vẫn dũng cảm không bỏ chạy. Theo nguyên tắc, nếu gà không mổ nữa, bất động - thì phải chịu thua, nhưng thấy Ô Tía quá dũng cảm, nên tất cả đồng tình cho đấu. Đến tối, thấy cuộc chiến bất phân thắng bại, vì không con nào bỏ chạy, anh Nhân phải xử hòa.
Sau trận đấu, trên đường về, Ô Tía gục chết trên tay chủ vì kiệt sức. Con Bông không thể ra trận được vì què chân. Sau được chủ bán để đưa vào Nam đúc giống với giá 5.000đ (tương đương 5 lượng vàng). Trận đấu vang dội ra Hà Nội, vào Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh. Bông là con thần kê duy nhất còn lại sau giải phóng: nó có tướng vảy trấn nên không ăn độ được.
Mệ Bửu Khởi đã già, không dự trận đấu được, nghe tiếng chống gậy đến tận nhà anh Kinh để xem tận mắt con thần kê. Mệ đứng lặng hồi lâu, xem xét con gà thần, khi chủ nhân đang lui cui ngoài sân dọn dẹp. Đến khi quay lại, thấy mệ vẫn chăm chú không rời mắt vào con Bông, chủ nhân lên tiếng chào hỏi, thì Mệ nhỏ nhẹ, chậm rãi nói:
- Tôi chơi gà suốt cả đời, chỉ có mấy con gà tài, nhưng thần kê như con này thì chưa hề thấy.
N.T.D.
(TCSH53/01&2-1993)
----------------------
(1) và (2): Các bà hầu của Hải Ninh quận công.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.