Một số nhà khoa học giải thích vì sao lại quyết định trao những tư liệu, hiện vật quý giá của đời mình cho Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (TTDS) chứ không phải nơi nào khác.
Nhật ký của GS Tôn Thất Tùng đang được TTDS bảo quản. Ảnh: Quang Minh.
Băn khoăn thường thấy của không ít nhà khoa học khi tuổi đã xế chiều là họ không muốn bỏ đi cái gì trong kho sách vở, bản thảo, thư từ, ảnh chụp…, dù nó đã bị mối ăn mấy lần, trong khi thế hệ con cháu họ sống trong kỷ nguyên kỹ thuật số lại không muốn giữ kho tư liệu đó, chỉ muốn số hóa để đưa lên mạng hay lưu trong USB. Vậy phải có một chỗ để phó thác.
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia cũng là nơi lưu giữ đáng tin cậy, nhưng không phải nhà khoa học nào cũng muốn tư liệu của mình nằm cùng vô vàn những tư liệu của các vị lãnh đạo, những người làm chính trị, hay thuộc các lĩnh vực hoạt động khác. Họ muốn tư liệu của mình được nằm đúng chỗ của chúng: nơi lưu giữ kỷ vật của các nhà khoa học.
Một số ngành khoa học hay nhân văn cũng có bảo tàng riêng cho ngành mình, nhưng quy mô thường không lớn, dễ tạo cảm giác chen chúc, chật chội. Đơn cử như Bảo tàng Văn học, nơi GS. Phong Lê cho biết ông cảm thấy băn khoăn vì chỉ mới trưng bày tư liệu, hiện vật của những nhà văn được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước “mà nhìn vào đã thấy chen chúc nhau, thấy chật chội, mỗi người chỉ được một ô nhỏ, ô của thầy Đặng Thai Mai có mỗi cái y bạ.”
Nhiều nhà khoa học đã lựa chọn TTDS, chủ yếu do ý thức trân trọng với các nhà khoa học, và đặc biệt là phương pháp xử lý, sắp xếp của Trung tâm này khiến họ cảm thấy những giá trị văn hóa, tinh thần gắn với các tư liệu, kỷ vật của mình được bảo tồn một cách nguyên vẹn nhất. |
Chính vì vậy, nhiều nhà khoa học đã lựa chọn TTDS, chủ yếu do ý thức trân trọng với các nhà khoa học, và đặc biệt là phương pháp xử lý, sắp xếp của Trung tâm khiến họ cảm thấy những giá trị văn hóa, tinh thần gắn với các tư liệu, kỷ vật của mình được bảo tồn một cách nguyên vẹn nhất. “Giá trị không phải ở chỗ chúng tôi lưu danh thiên cổ bằng mấy quyển sách. Không phải. Tôi nghĩ, đằng sau đó là những ký ức giúp hình dung ra thời chúng tôi sống. Những chuyện đó bây giờ chưa giá trị đâu, nhưng vài thế kỷ nữa vô cùng giá trị”, GS. Phong Lê bộc bạch.
Trường hợp của PGS Sử học Chương Thâu lại khác. Con cháu rất quan tâm coi sóc kho tư liệu của ông nhưng “sức của chúng cũng chỉ lưu giữ và bảo quản được khoảng 1/10 cái kho của tôi”, ông kể. Bởi vậy, sau khi để lại một phần cho con cháu, ông quyết định trao tặng một phần đáng kể kho tư liệu của mình cho TTDS. “Là người cả đời nghiên cứu về Phan Bội Châu và các danh nhân Việt Nam thế kỷ 20, tôi đã ký thác một phần kho tư liệu của mình cho một số nơi như Trung tâm Phan Bội Châu ở Huế hay Thư viện của Khu lưu niệm Phan Bội Châu ở Nam Đàn, Nghệ An, đồng thời đã nghĩ đến Thư viện Quốc hội, nhưng phần tôi gửi vào Trung tâm cũng là đáng kể vì tôi tin anh [Nguyễn Văn] Huy là người có tầm kiến thức, biết giá trị của tư liệu, lại có kinh nghiệm chuyên môn. Gửi vào đó, các tư liệu của tôi sẽ được bảo đảm và phát huy tốt hơn,” ông nói. Mặc dù còn giữ lại “phần cốt lõi nhất [của kho tư liệu] vì vẫn đang sử dụng chúng cho các nghiên cứu”, nhưng ông khẳng định, sớm muộn gì cũng gửi nốt phần đó, bao gồm những bản thảo viết tay các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản…, cho TTDS.
Trong số hơn 800 nhà khoa học đã gửi gắm niềm tin vào TTDS, GS Sinh học Hà Đình Đức là một trường hợp đặc biệt khi ông tặng đến hai khối tư liệu cho TTDS, một của bản thân và một của GS Đào Văn Tiến - “người thầy số một” của ông. “Từ những năm 1970, thầy bắt đầu chuyển cho tôi giữ hộ những tư liệu viết tay hoặc đánh máy, trong đó có những bản thảo, bài báo, ghi chép từ những năm 1940,” ông kể. Ông đã tỷ mẩn sắp xếp và thống kê di sản của thầy thành một danh mục gồm 18 trang mà sau này khi thầy được đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, ông đã gửi danh mục đó cho Hội đồng xét tặng giải như một tài liệu tham khảo. “Thật sự thầy đã nghiên cứu những gì ngay cả khoa và bộ môn cũng không biết hết vì thầy bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1940 với những ông thầy Pháp ở Viện Đại học Đông Dương. Chúng ta mà không ghi chép thì bản thân cũng chẳng nhớ mình từng làm gì ấy chứ. Thầy tôi qua đời năm 1995 thì năm 1996 được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.” Sắp tới, GS Hà Đình Đức cùng vợ chuyển đến một căn hộ chung cư để được ở gần con cái. Kho tư liệu chất đầy nguyên căn phòng 24m2 ở ngôi nhà cũ không tìm được chỗ ở căn hộ mới. Bản thân các con ông - người làm nghề kiến trúc, người làm kinh doanh - “quan tâm gì đâu đến những thứ đó”. “Giữ mà không dùng hết, không khai thác hết thì cũng phí” nên khi được ngỏ lời, ông đã quyết định tặng cả hai khối tư liệu cho TTDS.
Nữ giám đốc điều hành trẻ tuổi của TTDS Trần Bích Hạnh cho biết, hầu hết các khối tư liệu, hiện vật của các nhà khoa học đã được tiếp quản kịp thời, nhưng cũng có những trường hợp được tiếp nhận trong tình trạng bị hư hại nặng. Điển hình là khối tư liệu, hiện vật của GS Tôn Thất Tùng. Là người trực tiếp làm việc với hồ sơ của GS Tôn Thất Tùng, chị Hạnh kể, vị Giáo sư khả kính có thói quen ghi chép tỉ mỉ công việc từng ngày và ông để lại rất nhiều sổ tay, thư từ trao đổi với bạn bè quốc tế, hình vẽ các trang thiết bị phẫu thuật mà ông quan sát được trong các chuyến đi nước ngoài và ảnh chụp. Thế nhưng sau khi Giáo sư qua đời gần 30 năm, không có trung tâm lưu trữ nào ngỏ ý với gia đình ông về khối tư liệu, hiện vật đó, cho tới khi TTDS tìm đến vào tháng 10/2011 - bà Tôn Nữ Ngọc Trân, con gái của Giáo sư, cho biết. Vậy mà cũng phải mất hơn nửa năm, vợ và các con gái của Giáo sư mới đủ quyết tâm “chia tay” khối kỷ vật của người thân gồm hơn 4.000 tư liệu và hiện vật, khá nhiều trong số đó đã bị biến dạng do thời gian và điều kiện bảo quản hạn chế tại tư gia. Bà Trân không khỏi tiếc nuối, “giá như trao tặng kho tư liệu cho Trung tâm sớm hơn vì ở Trung tâm, chúng được giữ gìn tốt hơn. Như cuốn nhật ký Điện Biên Phủ của cha chúng tôi giờ được scan màu, ai cũng có thể xem chứ bản gốc thì gần như rã ra rồi, chúng tôi không dám sờ đến.” Trong số 200 bức ảnh GS Tôn Thất Tùng để lại cũng chỉ còn chưa đến 10 bức nguyên vẹn nhưng TTDS cho biết vẫn giữ hết để bảo quản.
Hoạt động lưu trữ, bảo tồn, triển lãm bằng tài trợ của tổ chức tư nhân, liệu khi nguồn tài trợ đó không còn, điều gì sẽ xảy đến với những tư liệu, hiện vật mà các nhà khoa học đã gửi gắm cho TTDS? Các nhà khoa học nghĩ sao về tình huống này? Chúng tôi đã chuyển câu hỏi trên đến một số nhà khoa học hoặc thân nhân của họ. “Thế gian vật đổi sao dời, chuyện gì cũng có thể xảy ra, nhưng Trung tâm bảo quản giúp [tư liệu, hiện vật] được ngày nào là tốt ngày ấy,” bà Tôn Nữ Ngọc Trân e dè, trong khi PGS Chương Thâu tỏ ra hết sức lạc quan: “Tôi chưa nghĩ đến tình huống đó, nhưng dẫu có thế nào, các thế hệ con cháu sẽ vẫn phải tiếp tục nghiên cứu về các thế hệ đi trước chứ, vì vậy lo gì không có người tiếp quản.”
Nguồn: Thái Thanh - Tia Sáng
Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.
Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?
Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.
Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.
Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…
Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”
Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.
Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.
L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.
Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.
Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...
Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.
Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt
Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.
Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.
Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.
Những tác phẩm văn học mang nặng tính giải trí dần chiếm lĩnh thị trường và thu hút ngày càng nhiều cây bút trẻ.