Dăm năm cuối của thập niên 90, tác giả Ngọc Khương nổi lên với những tập thơ viết cho thiếu nhi như Bim bim và mướp vàng, Cây đàn và bông hồng (in chung với con gái út Kiều Giang). Dạo đó thơ anh được các nhạc sĩ chú ý, tìm đọc và chắp cánh cho những bài: Em là gió mát, Búp bê cổ tích, tập đàn, Nhà cười thành những ca khúc “đứng” được với thời gian.
Tháng 8 năm 2012, đánh dấu sự trở lại đầy ngẫu hứng, nhà thơ Ngọc Khương đã gửi đến bạn đọc một lúc 3 tập thơ: Cây đổi màu, Võng tình và Trăng Nhật Lệ. Đây là những trăn trở của tác giả về những góc cạnh của cuộc sống...
Quý mến một người bạn tâm huyết với thơ, xin được giới thiệu 2 bài thơ của Ngọc Khương như một cộng tác viên mới đến cùng Tạp chí.
Phan Trung Thành (gt)
NGỌC KHƯƠNG
Trăng Nhật Lệ
Gửi về Đồng Hới thân yêu
Vầng trăng ngày xưa ấy
Như mắc vào ta đây
Nửa mặn mòi miệt bể
Nửa hương hoa hồng bay...
Vầng trăng ngày xưa ấy
Lấp lánh nghìn sao băng
Ta như con còng gió
Ngập ngừng... theo ngấn trăng
Ôi vầng trăng Nhật Lệ
Gom từ vạn thương đau
Nhặt từ muôn cát bể
Nghìn trùng, xin nhớ nhau!
Em ơi vầng trăng ấy
Giọt lệ vàng nhớ nhung
Như ngọn đèn bên cửa
Thao thức đến khôn cùng!...
Truy Viễn Đường
Bốn trăm năm trầm mặc, rêu phong
Gạch ngói vỡ đau ngôi đền cổ
Bao triều đại xoay vần, hưng phế
“Truy Viễn Đường”(*) trơ với nước non
Kẻ nịnh thần gieo hận hoàng cung
Sông cuộn sóng thanh gươm buốt máu
Ngôi mộ cổ lung linh kỳ báu
Sắc phong ngàn dâu bể còn nguyên.
Hương vân vi hùng khí địa linh
Thành Lạc về, sao băng huyền thoại
Bao ẩn tích cựa mình bừng dậy
Bước voi thần rậm rịch thời gian.
Bốn trăm năm bao nỗi hợp tan
Bóng tre ngà ấp ngôi đền cổ
Dòng Hòa Giang ru người trong mộ
Hàng dừa xanh mát rượi làng quê.
Cung đàn xưa như vẫn đê mê
Câu tế cũ ngất ngư ngày giỗ
Tiếng trống vọng hồn thiêng tiên tổ
Hương khói trầm thoáng vó ngựa bay
.........................................
(*) (Ngôi đền cổ tại làng Vĩnh Phước, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình được công nhận di tích lịch sử, văn hóa).
(SH294/08-13)
...kẹt cửa run nắm tay dịu dàngem đã về chưakhông có tiếng đáp lời, không còn ai...
Thành phố tôi như một ráng mâyTrôi ngoài cửa gióNhững lóng rêu lần qua tay áo rũ Cuối sông lơ đãng rượu như mình
Em đừng thả nửa giấc mơĐể không qua kịp nửa bờ lá dâu
những tình cờ mà con người ngỡ là sự sắp đặt của thượng đếtôi đã gặp ôngmột lầnhai lần
Morningtonban mai chạy tới chân mây rắc bạcgặm bình minh nở gặm cỏ non tơlốm đốm trắng những chú bò đực kiêu hãnh
lưng chừng sángngực em căng đầy giấc mơ anhlong lanh xanhmùa Đông phương trinh tiết
Vú nóngngười đàn bà dán thân thể nâu bóng vàonỗi đợi
Một tháng 30 ngàyMột năm 12 thángThời gian có thể đưa ra đong đếmTình yêu không thấy hình hài
Ta lặn vào nhau chênh chao nỗi nhớNhững niềm yêu lấm cát cuộn tràoÁnh lửa khuya phải chăng là ảoVẫy vùng trong mắt em sâu?
Người đàn bà se bóng tối trong tôikhông đêm tân hôntạo hóa nhọc nhằn đẩy bánh xe tạo hóavòng quay rớt một con ốc như con ốc sên nhòe nhoẹt nước trên đường đi qua
Người bước vào bức tranh tôikhông sắc màunét cọ vẽ bằng sóng - sóng vang không gian 18 chiềuchật chội cơn mơ
Hành hương về núi Thần ĐinhLên chùa Kim Phong trên nghìn bậc đá
Mở những khát vọng raCánh cửa đập tan bờ sóngTrái tim không thể hú hớ nổi ngọn gió thơ trên đồi hoang vuMênh mông vỡ vụn và tự mất dần bóng tối lung linh
Tôi về vốc nước dòng sôngChút rong rêu cũ phiêu bồng đã lâuCòn đây sóng vỗ chân cầuTiếng đàn xưa lạnh, ngọn cau nắng tàn
LTS: Đây là một trong những bài thơ của anh Thanh Hải trong những ngày cuối đời. Bài này chúng tôi chép trong sổ tay của chị Thanh Tâm, vợ anh. Bài thơ không có đầu đề.
Trong ánh chớp rừng mũi tên tua tủa Mỵ Châu lao trên mình ngựa kinh hoàng Vết lông ngỗng rơi cùng nước mắt Trái tim đớn đau đập với nỗi mong chờ...
Những người vợ tiễn chồng về phía ấycó bao giờ quên đâucon sông đã một thời cuồng xô như máu chảynhư khăn sô khoanh sóng bạc ngang đầu
hay Một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát (trích)những con cá vàng ngủ mê trong điện Thái Hoàcặp mắt dấu sau bóng tốitiếng thở dàibàn tay nơi không thấy bàn tayphút chốc đốm lửa loé sángngười lính canh bên con nghê