LÊ HƯNG TIẾN
Ảnh: internet
Riêng những ngả lẻ
Tôi lại vẽ suy tư chạy dọc những ngã riêng lẻ Huế. Những ngả riêng thơm mùi chân đất cùng với những con đường chật chội ký ức. Phố dạo này thiếu một ánh nhìn thân thuộc xưa cũ. Một ánh nhìn đầy bí ẩn và cũng rất hoang dại được đặt nghiêng bên hông hành lang Thần kinh. Vội vã cho trầm tích thay màu hoen gỉ. Những dấu xưa loang lỗ nhiều lỗ chỗ vết rêu phong. Rêu phong thành quách. Rêu phong không gian. Rêu phong ý nghĩ. Và rêu phong thầm thì. Ở đây, khu bảo tồn tiếng nói được triển lãm trước sự vo viên hồn nhiên của bao lữ khách mang nặng tâm cảm và cả tâm thức cuộc người. Còn cuộc chữ thì mặc sức chạy vạy khắp chốn kinh thành để tìm dấu ấn ông phỗng và tìm một chữ ký đúng nghĩa cho mình lên ngôi khoảnh khắc. Đôi khi lên núi Ngự hoặc xuống dòng Hương, không thì qua Bao Vinh rồi sang Vỹ Dạ, chỉ được đổi mùa mùa ý tưởng cho miền con gái ướt sũng vầng trăng. Có lẽ, tôi nợ nần những con chữ rất nhiều thung lũng, nên đến đây, tôi bị trầm tích hoang hóa mưa lòng. Không biết đến khi nào tôi trả hết cuộc chữ miền xanh của cỏ và miền nắng của phố. Ai có thể cho tôi vay chút ký ức để tôi trả xưa cho con chữ làm cuộc ngày lên ngôi thần hôn, nhưng không tính nặng lãi nhé, vì tôi không thể trả hết thần hồn của tôi được.
Có lẽ mai đây, tôi theo bản ngã để tiến về Hà Nội, hội tụ những khó khăn toàn tập. Và cũng có lẽ, hành trình lại doãi ra thêm nhiều ngã riêng lẻ suy tư, tôi lại tiếp tục chạy vạy cuộc chữ. Và suốt đời, tôi trả không hết hư không... Ôi, phù du một kiếp phù du. Tôi mang kiếp chữ đánh đu cuộc người…
Cái nháy mắt
Về thăm Huế bằng cái nháy mắt, nỗi ưu tư chưa làm đủ phiếm tơ ngẫu giăng những lối riêng rẽ vào cơ thể thần hồn. Ai đó dạo một bước lạc trên ngọn cỏ hờ chạm vào khoảnh cách tưởng tượng với không gian mở. Mở mùa biếc xưa sau. Thôi đành về với cõi riêng mình khi giá trị ẩn còn đong đo cân đếm lòng người. Ta về thôi phố đã chưa mùa. Mùa bao dung lãng bước.
Tuy thời gian ngắn nhưng ít ra có được cơn mưa nhè nhẹ thoáng qua thần hồn. Cảm giác mơn man còn trai tráng. Tí bần thần làm con người cũng tần ngần tẩn ngẩn. Hành trình lại bắt đầu chuyển hướng ra Hà Nội. Vậy nhé, tôi ơi! Hãy tự thức để háo hức làm hành trang cuộc người.
Vậy thôi
16 năm trước, tôi tìm mình khắp nẻo những riêng lẻ trầm tích từ mấy thế kỷ trôi vào hin hít gió. Những phế tích mọc đầy nội sinh trong từng lớp lớp tế bào cơ thể như mang hơi thở bỏ vào hồng hoang chạm trổ đầy rong rêu xanh, có lúc màu nâu úa nổi đóa long lanh cho mặt trời vó ngựa khai tử. Khai tử để phóng sinh.
16 năm sau, tôi lại mang hình hài len lỏi in trên vách mùa những thinh không thủng thỉnh dấu vết loang loáng ai bước dường như đã. Tôi lẫn vào cái ta xưa tưởng để lần ra lịch sử đời mình ẩn từng con số ảo. Tôi tự thức những lần trầm mình không số má để suy tư hoang hóa mỗi khuôn mặt nã chữ. Thế là ý tưởng lên mùa mùa đòng đỏng bay bay. Tôi tiếp tục dắt những con chữ đi hoang để đỡ đẻ cho mỗi mặt trời xuống vó. Vó vào thời cuộc.
Một ngày mới với mỗi bước ai đã hồ như. Tôi cứ một hồ hởi cho ngày loay hoay khó diễn. Lặn vào thinh không, tôi thỉnh cầu những lớp tích chằm chằm chăm chắm lên ngôi. Lên ngôi cho xưa xửa hái hương từ cây chữ thập hoặc từ cây thánh chữ. Tôi mãi là tôi của muôn năm trước. Vậy thôi.
Một ngày lang thang qua từng ngõ ngách. Mỗi con phố gọi ký ức vào mùa. Mùa hội tụ của các anh em về cái mái chèo, mái đẩy Huế, để Huế ngày càng thơ hơn, và rất Huế hơn. Vậy thôi.
Dấu ảo
Nhớ lại thời còn xưa cũ ở Huế (tính từ những năm 2000 cho đến nay), những dấu chân ai đã quên mùi chân đất. Cái thời mà mình đã tốn nhiều phí hào hoa và nước mắt thần hồn, nhưng rốt cuộc cảm xúc cũng cho ta được gọi là đúng nghĩa cuộc người. Thời trước, cách đây hơn 15 năm có lẽ, ta cũng đã men theo dấu hài của các vị vua, cung tần mỹ nữ và cũng lần ra được mấy kiếp đã hoang hóa bao thế kỷ hin hít. Hình như tiền kiếp ta đã ngang qua đây, và có lẽ ngẫm nhiên ta lại suy tưởng của kiếp này. Sự thật thế nào ta phải đặt dấu ảo để hỏi tâm thức viển vông của ta đã. Chứ không hiểu sao mỗi khi bước chốn này, ta có cảm giác quá đỗi xâm mặt từ những đường cỏ, gốc xanh rơm rạ trong vô thức thường trực của hành lang trí não.
Giờ đây, lòng bắt đầu cảm thấy rưng rưng ngoài miền mắt ướt. Chơi vơi thời trước nay cũng thành chới với mùa sau. Chới với những ngày vui hớn hở quá đỗi gặp nhau. Quá đỗi để xâm mặt lại chơi vơi. Hình như có bước ai riêng lẻ đọng vọng vào hư hao một phím tơ ngẫu phù du ngón khao mùa. Mùa của yêu thương đầy biếc xưa xanh…
(SHSDB35/12-2019)
VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..
NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.
TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.
Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.
Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.
Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.
Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.
Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.
Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.
1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.