DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI
Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.
Tam quan chùa Từ Hiếu - Ảnh: internet
Anh Văn Cao mới đây đã không thể dời chân khi thấy vườn tiêu và lớp lớp mái chùa Từ Hiếu trong một buổi chiều Anh và chúng tôi về thăm chùa muộn. Chính anh đã thái quá nghiêng mình trước vị cao tăng chùa Linh Mụ và sau đó anh đã phát biểu: “mình chưa làm thế bao giờ”. Vậy là chỉ vãn cảnh chùa chúng ta đã thấy có gì khác lạ, thanh thản và kính yêu!
Chùa ở Huế được xây dựng từ lâu, chúng ta biết sau ngày Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, cắt đứt liên hệ với vua Lê và tạo lập ra xứ Đàng Trong lấy sông Gianh làm ranh giới, nhưng phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân hai miền vẫn là một. Huế lúc này là miền đất mới, chính trị, kinh tế, tín ngưỡng còn phôi thai, dân phần nhiều từ miền Bắc di cư vào và dân Chiêm Thành bị đồng hóa chưa có nơi sinh hoạt tinh thần nên chùa dần dần được xây dựng: Linh Mụ (1601), Bảo Quốc (1674), Từ Đàm (1683), Quốc Ân (1684), Thuyền Tôn (1708 -1710), Từ Hiếu (1843), Diệu Đế (1844), Tây Thiên (1903), Trúc Lâm (1909), Trà Am (1923), Diệu Đức (1932). Hàm Long Sơn Chí của cư sĩ Nguyễn Phước Hồng tự Như Lai đã viết về nhiều chùa ở Huế nhưng thường không rõ và không đầy đủ, chúng tôi chỉ dựa vào các tài liệu hiện lưu giữ tại các chùa.
Không kể gần 200 Niệm Phật đường của các khuôn hội Phật học, Huế và vùng phụ cận có khoảng trên 100 cảnh chùa nhưng nổi tiếng nhất và thuận lợi cho sự giao thông thủy bộ là các chùa Linh Mụ (theo tuyến đường thăm quan tả ngạn sông Hương) và Bảo Quốc, Từ Đàm, Từ Hiếu (theo tuyến đường thăm quan hữu ngạn sông Hương).
CHÙA TỪ ĐÀM
Chùa nằm trong địa phận phường Trường An, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 2 cây số về phía Nam. Chùa hướng mặt về phía Đông Nam lấy núi Kim Phụng làm án. Xưa chùa có tên là Ấn Tôn, năm 1941 mới đổi tên là Từ Đàm. Chùa do ngài Minh Hoằng Tử Dung tạo lập năm 1683. Ngài là người Trung Hoa thuộc dòng Thuyền Lâm Tế thứ 34. Sau ngày truyền pháp cho Hòa Thượng Liễu Quán (1677 - 1742), người Việt Nam và cũng là Tổ Thuyền Tôn của xứ Đàng Trong cũng như Hòa Thượng Chuyết Công khai nguyên dòng Lâm Tế tại Đàng Ngoài vào đời Lê Hy Tông (1676 - 1705), do đó hầu hết tăng ni Đàng Trong thuộc dòng Lâm Tế. Trong chùa đặc biệt có cây Bồ Đề được trồng năm 1936, cây này được chiết từ cây Bồ Đề với Phật đắc đạo do ngài Narada trao tặng. Trong điện Phật có bức tượng Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sen dưới Bảo Cái sơn son thếp vàng, đằng sau là vòng hào quang phản chiếu ánh sáng bên ngoài. Ngôi tượng mỹ thuật này đánh dấu một giai đoạn trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc Phật giáo. Lối kiến trúc mới và giản dị. Sự thờ cúng ở đây cũng khác với các chùa khác, chỉ thờ độc tôn. Ngoài ra chùa còn có giảng đường, nhà Tổ, nhà khách, nhà Tăng (Theo Thiện Châu, Phật giáo Nguyệt san số 3 năm 1957).
Tuy không phải là ngôi chùa cổ nhất nhưng chùa Từ Đàm là một danh thắng nổi bật vì nó đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử chống Mỹ Diệm và Mỹ Thiệu cho đến ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
CHÙA BÁO QUỐC
Chùa Báo Quốc được xây trên một ngọn đồi gọi là núi Hàm Long thuộc phường Phường Đức, thành phố Huế, đông giáp đường Điện Biên Phủ, tây giáp thôn Lịch Đợi, nam giáp thôn Trường Giang, bắc giáp nhà ga Huế. Chùa có diện tích khoảng 2 mẫu tây.
Chùa Báo Quốc do Tổ Giác Phong xây dựng vào khoảng năm 1674, khởi thủy chỉ là một ngôi thảo am về sau được tu chỉnh dần. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ khẩu. Năm 1747 Hiến Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban tấm biển mang dòng chữ "Sắc Tứ Bảo Quốc Tự". Năm 1808 Hiếu Khương Hoàng Hậu cho trùng tu, xây cửa Tam quan và đổi tên chùa là Hàm Long Thiên Thọ Tự, Đại hồng chung hiện thờ tại chùa cũng được đúc vào năm này. Dưới triều Minh Mạng nhà vua lại đổi tên chùa là Báo Quốc như cũ. Năm 1858 Vua Tự Đức cho trùng tu Chùa một lần nữa. Đến năm 1948 Phật học đường Linh Quang được dời về Báo Quốc từ đó chùa Báo Quốc trở thành một trung tâm đào tạo tăng tài mệnh danh là Phật học đường Báo Quốc. Năm 1957 chùa bị mối mọt đổ nát nên được Ban Quản trị Tổ Đình tái thiết bằng xi măng cốt sắt nhưng vẫn giữ nguyên lối kiến trúc cổ kính.
(Theo tài liệu của Ban Quản trị chùa Báo Quốc).
CHÙA TỪ HIẾU
Một trong những danh lam ở Huế được nhiều người biết đến vì có phong cảnh chung quanh rất đẹp. Chùa tọa lạc trên một khoảng đất rộng 8 mẫu tây, chung quanh có đồi thông, khuôn viên chùa rộng 4 mẫu 5 thuộc địa phận xã Thủy Xuân, thành phố Huế, khoảng 5 cây số về phía Tây. Trước mặt chùa có khe nước bao quanh, xa xa về hướng Đông Nam có núi Ngự Bình.
Trước kia chùa có tên là An Dưỡng Am do Hòa Thượng Nhất Định dựng lên (1843) nhưng sau đó chỉ dụ của vua Tự Đức và do lời tâu xin của các Thái Giám đương triều, chùa được xây dựng vào năm 1848. Các Thái Giám vốn là những người không con nối dõi nên muốn góp công tu tạo một ngôi chùa để nương mình lúc tuổi già xế bóng, ký thác hương khói nơi hậu viện sau khi họ lâm chung. Tương truyền Nhất Định Đại Sư khi lập An Dưỡng Am có đem theo mẹ già. Có lần Cụ bà đau nặng, thầy thuốc khuyên bệnh nhân nên ăn thịt cá. Từ đó ngài thường xuống chợ Bến Ngự mua cá buộc vào đầu gậy vào về chùa nuôi mẹ. Nhờ vậy mẹ ngài khỏi bệnh. Có lẽ do vậy Tự Đức sắc ban cho chùa danh hiệu “Sắc Tứ Từ Hiếu Tự”. Trước khi vào Chùa ta thấy một ngôi Tháp nhỏ đó là Tháp Bồ Đề được xây dựng vào năm 1896. Tháp là nơi tàng trữ kinh tượng bị hư hỏng để tự ly tán theo thời gian. Qua khỏi Tam Quan đến hồ bán nguyệt và tiến vào trong là sân chùa hai bên có hai bi đình nói về lịch sử hình thành chùa. Tiến đến là Tiền đường, phía sau là nhà Tổ. Cách nhà Tổ bởi một sân hậu còn gọi là sân khấu là Quảng Hiếu Đường. Ở giữa thờ Đức Thánh Quan, bên phải được dành riêng để thờ các Thái Giám đặc biệt có Thái giám Lê Văn Duyệt với chiếc long vị sơn son thiếp vàng chạm trổ tinh vi do chính Tự Đức cho đem vào thờ. Kế tiếp phía bên phải là nhà "Hữu Ái Nhật" để tiếp khách thập phương, phía trái là "Tả Lạc Thiên" đây là chỗ nghỉ ngơi nghiên cứu kinh điển. Chùa Từ Hiếu cũng như một số chùa khác ở Huế mang nét kiến trúc đặc thù Việt Nam. (Theo lịch sử chùa Từ Hiếu từ 1843 - 1943 của Nguyễn Sum).
CHÙA LINH MỤ
Chùa Linh Mụ hay Thiên Mụ được tạo dựng trên một ngọn đồi cao - đồi Hà Khê - thuộc xã Hưng Long, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 7 cây số về phía Tây.
Chùa có từ thế kỷ thứ 14, sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An soạn đời nhà Mạc (1527 - 1592) có ghi: "Chùa Thiên Mụ ở phía nam Xã Hà Khê, Huyện Thanh Trà, chùa làm trên đỉnh núi, sông chảy quanh dưới chân, khác hẳn thế giới trần tục". Nhưng thời ấy chắc là chùa nhỏ cho đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Quảng, chùa mới được xây dựng lại nguy nga. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép: "Vào khoảng năm Tân Sửu 1601, nhân đi du ngoạn sơn thủy, xa giá đến làng Hà Khê, Chúa Nguyễn Hoàng thấy bình nguyên đột khởi gò đồng chập chồng tựa hình con rồng ngoảnh đầu trông lại trước cuốn nước trường giang, sau đắm mình nơi Bình Hồ, cảnh trí tốt đẹp, Ngài bèn hỏi dân sở tại về cảnh đồi ấy. Họ tâu rằng: "Tục truyền khi xưa có người đi qua ngọn đồi này. Một bà lão đầu tóc bạc phơ, áo điều quần lục ngồi trên đỉnh đồi bảo người ấy rằng: "Rồi đây có một bậc chân Chúa đến lập chùa để tụ linh khí và cố long mạch", nói rồi biến mất. Do đó dân chúng gọi đồi này là Thiên Mụ sơn. Chúa nghe xong cho là một điều hay, lại thấy địa cuộc có linh khí bèn dựng chùa thờ Phật đặt tên là Thiên Mụ Tự".
Đến năm Ất Tỵ (1665) Chúa Nguyễn Phúc Tần trùng tu. Vào năm 1710, Chúa Nguyễn Phúc Chu phát tâm đúc một quả đại hồng chung và năm 1714 Chúa sai quan Chưởng cơ Tống Đức Đại đôn đốc công việc khuếch trương cảnh chùa lên đến vài chục sở và cho trang hoàng cực kỳ tráng lệ. Chùa được sửa sang xong, Chúa tự làm bi ký nói về việc trùng tu chùa khắc vào bia đá, từ đó Thiên Mụ trở thành một già lam to nhất xứ. Sau đó chùa bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đến năm 1815 chùa mới được trùng tu lại nhưng bớt đi nhiều. Mãi đến năm 1844 Thiệu Trị cho xây trước nghi môn một ngôi tháp 7 tầng gọi là Tháp Phước Duyên. Trước Tháp dựng một ngôi đình gọi là Hương Nguyên Đình. Trong đời Tự Đức (1862) nhà vua không con, theo quan điểm xưa, có thể do đụng chạm đến Trời (Thiên) nên vua xuống chỉ đổi tên Thiên Mụ ra Linh Mụ, nhưng sau Tự Đức vẫn không con nên lại cho theo tên cũ là Thiên Mụ (1879). Dưới triều Thành Thái chùa bị trận bão năm Thìn (1904) tàn phá gần hết. Năm 1907, Vua Thành Thái cho tu bổ lại. Tuy chỉ tu bổ một phần nhưng vẫn giữ nguyên được cốt cách xưa nên không kém phần trang nghiêm cổ kính. Cũng như các nhà chùa khác ở Huế, sự thờ cúng ở đây tuy đơn giản nhưng rất trang nghiêm.
(Theo Quách Tấn, Liên Hoa Nguyệt san số 12 ngày 13-1-1960).
Vậy là từ ngày các Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung, Giác Phong, Nguyễn Thiều, Liễu Quán... khai lập các Tổ Đình tại vùng Thuận Quảng ban đầu là những Thảo Am nhỏ thanh khiết sơ sài nằm bên núi, cạnh những dòng khe, cho đến nay đất thần kinh đã có trên 100 cảnh chùa với cái phong vị trầm mặc tôn nghiêm. Không kể những chùa tư và nhỏ, Huế có khoảng 70 chùa thuộc về triều đình đài thọ gọi là Quan Tự.
Và đó cũng là một điểm văn hóa du lịch hấp dẫn mời gọi du khách đến Huế.
D.Đ.C - T.H.C.L.
(SH32/08-88)
NGUYỄN TRÙNG DƯƠNG
Hầu như từ muôn thuở, trên thế giới, con người vẫn thích nhìn trò đấm đá nhau.
PHÚC ĐƯỜNG
Hổ Quyền là đấu trường hoàng cung (les Arènes royales) được xây dựng cách đây 162 năm dưới thời Minh Mạng.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nếu ai vào Cố đô Huế mà đến thăm di tích thật đặc biệt, có một không hai là Hổ Quyền sẽ thấy vàng son một thuở của uy quyền phong kiến khi cho xây dựng đấu trường để hổ đấu với voi, phảng phất đấu trường La Mã cổ đại.
MAI VĂN ĐƯỢC
VÕ VINH QUANG
VŨ NHƯ QUỲNH
TÔ NHUẬN VỸ
Chỉ còn ít ngày nữa khai mạc Liên hoan Ảnh nghệ thuật của 6 tỉnh Khu 4 cũ nhưng Ban tổ chức vẫn chưa "phát hiện” ra một địa điểm nào trong thành phố có thể trưng bày 180 bức ảnh (mỗi tỉnh tuyển chọn gởi đến 30 bức).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Võ dân tộc còn gọi là võ ta, nghĩa là võ cổ truyền dân tộc Việt, vốn đã tồn tại lâu đời, đa dạng, khó tra cứu.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, Đồng tôn tương tế phổ đã cố gắng chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho những người hoàng phái, tôn thất. Tinh thần tương thân tương ái từ những năm 20 của thế kỷ XX này đã góp phần lan tỏa giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
NGUYỄN SƠN THỦY
Kể từ năm 1993, Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới, ngành du lịch Thừa Thiên Huế (TT Huế) đã nổi lên như một điểm đến không thể thiếu trong hành trình du lịch Việt Nam của du khách trong và ngoài nước.
PHƯỚC HẢI
Dịch bệnh thời nào cũng xảy ra, không chỉ ở một vùng, một nước một khu vực mà có lúc là toàn cầu, nhất là trong điều kiện giao thương thuận lợi như hiện nay.
THANH TÙNG
Du lịch là hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các vùng văn hóa, các quốc gia. Người ta đi du lịch là để tìm hiểu những điều kỳ thú mà ở nước mình, vùng đất mình ở không có.
NGUYỄN QUANG HÀ
Kinh Thành Huế được khởi công xây dựng từ thời vua Gia Long (1805) và hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng (1832). Ngay từ thời vua Gia Long trở đi, khu vực Kinh Thành Huế là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầng lớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa. Tầng lớp dân chúng chỉ được sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là loại hình âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách ở kinh đô Huế ngày xưa. Đây là loại hình âm nhạc có tính chất tri âm tri kỷ, cho nên, Ca Huế có hình thức diễn xướng gọi là Ca tri âm1.