Chủ tịch Hồ Chí Minh với những lời tiên tri lịch sử

15:01 15/12/2009
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

Ảnh: phusaonline.free.fr

Hai quốc gia có những điểm giống và cũng rất khác nhau lại cách xa nhau nửa vòng trái đất. Đó là Việt Nam và Mỹ. Hai con người, mà một người chúng ta ai cũng biết - Chủ tịch Hồ Chí Minh và người kia là Luật sư Tô-mát-Giép-pơ-sơn (Thomas Jefferson) (*). Nhưng hiếm có sự ngẫu nhiên nào lại trùng hợp đẹp đẽ, như cuộc hẹn lịch sử tiên tri, giữa một con người mà cả cuộc đời gắn bó với dân tộc và thời đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà ít người trong chúng ta có thể chưa hiểu rõ.

- "VIỆT NAM ĐỘC LẬP... 1945"

Tôi tình cờ đọc cuốn "Những chặng đường lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Nhà xuất bản Văn học 1977, trong đó có một định đề để chúng ta trao đổi "Thực tiễn và thời gian sẽ là kiểm nghiệm nghiêm khắc những điều tiên tri đó thuộc về những thiên tài, có điều lịch sử đã diễn ra đúng như dự đoán của Người".

Hẳn chúng ta ai cũng biết cuốn "Lịch sử nước ta" mở đầu có hai câu "Dân ta phải biết sử ta; Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" do chính tay Bác Hồ viết, Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản tháng 2/1992 ở căn cứ Cao Bằng. Cuốn sách bằng thơ dài 210 câu theo thể thơ lục bát, dễ hiểu, dễ nhớ đó dùng làm tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Điều đặc biệt là: Tuy giữa lúc cách mạng còn khó khăn, nhưng trong niên biểu "Những năm quan trọng" ở cuối cuốn sách, Bác Hồ đã tiên đoán "Việt Nam độc lập... 1945".

Theo đồng chí Võ Nguyên Giáp - một trong những cộng sự gần gũi thân cận với Bác - người duy nhất đặt vấn đề về sự kiện Bác Hồ tiên đoán ngày cách mạng thành công kể lại: "Mùa xuân 1941 - Bác Hồ đã tiên đoán ngày cách mạng thành công 45 - sự nghiệp hoàn thành". Bác không hề nhắc lại câu thơ này. Từ đó đến nay, bị lôi cuốn vào công việc, anh em chúng tôi cũng chưa có dịp hỏi lại Bác: Vì sao Bác có một sự tiên đoán như vậy, điều đó đã trở thành một trong những điều ta chưa hiểu hết được về con người và cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại gần 60 năm của Bác" (1).

Đầu năm 1945, khi còn ở Tân Trào, Bác Hồ đã nhờ trung úy Phe Lan có biệt danh là Giôn trong nhóm "Chim Họa Mi" của quân Đồng Minh chống phát xít... điện về Côn Minh (Trung Quốc) xin một bản sao tuyên ngôn độc lập Mỹ để tham khảo và chuẩn bị cho các tuyên ngôn thông điệp sau tổng khởi nghĩa tháng 8. 1945. Chúng ta còn nhớ câu nói của Bác Hồ trong những ngày. Người ốm nặng tại lán Nà lừa trước ngày tổng khởi nghĩa. "Lúc này là thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập", (2). Bác Hồ của chúng ta từ lời nói, việc làm, quyết tâm và hành động kiên quyết đều đồng nhất như thế đó!

- Đế quốc Mỹ sẽ xâm lược Việt Nam và nhân dân Việt Nam đánh thắng Mỹ kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ trên không.

"ĐÁNH CHO MỸ CÚT..."

Trong mỗi trái tim của người Việt Nam hẳn không quên bài thơ chúc tết mùa xuân Kỷ Dậu 1969 - năm cuối cùng trước lúc Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta có câu "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào". Câu thơ đã đi vào lịch sử như lời thúc dục, quyết tâm của cả dân tộc và chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tôi cố lục tìm trong tất cả di cảo của Người mà mình có được và thật bàng hoàng xúc động, không rõ vì sao Bác Hồ của chúng ta có linh cảm tài tình đến thế. Bởi lịch sử vốn có những ngẫu nhiên và cũng vô vàn biến cố bất ngờ kể cả vào giờ phút chót của sự thắng lợi, nhưng ở Bác Hồ, lịch sử đã diễn ra như lối ước hẹn trước! "... Đánh cho Mỹ cút", không phải đến khi Mỹ đổ quân vào miên Nam 1964 Người mới nói đến chuyện đánh Mỹ. Mà ngay sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ vừa kết thúc; hội nghị Giơ-ne-vơ (Genève) mới bắt đầu họp, Hồ Chủ tịch đã khẳng định". Bây giờ Pháp thì đang nói chuyện với ta, đế quốc Mỹ thì đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ" (3). Nhắc đến sự kiện này, đồng chí Tố Hữu kể lại "Hồi đó mình là trưởng ban tuyên truyền... chiều 7 - 5 lên xin ý kiến Bác. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo "Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi... chiến tranh chưa kết thúc đâu, kẻ thù của ta bây giờ không phải là Pháp nữa mà là Mỹ, không khéo chuyến này ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, đừng có tếu". Điều ngạc nhiên là ông Cụ (Bác Hồ) lại nói chuyện ấy ngay sau ngày chiến thắng Điện Biên". (4)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại "... Chiều 7 - 5, ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì nhận được điện... trong bức điện có một câu "... thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ bước đầu..." tôi đứng dậy đọc điện và tôi nói với các anh lúc đó đang ngồi ở Sở chỉ huy là: chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh mới viết được câu này...". Còn lúc về Hà Nội gặp Bác Hồ, Bác có nói với anh em cán bộ "làm gì các chú tếu thế, còn phải đánh Mỹ... tầm nhìn của Bác là như vậy..."(5)

Ngày 26/ 5/ 1954 trên báo "Cứu quốc" Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bài "Pháp vỡ đầu, Mỹ càng méo mặt" nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ "... Thế là Mỹ dần dần trở nên kẻ địch chính của quân đội và nhân dân ta, và cảnh tỉnh tình thế chiến tranh mới dữ dội và ác liệt hơn đối với đất nước... nhiều Điện Biên Phủ khác đang chờ đợi chúng ta".

Không ai có thể ngờ rằng: vào thời điểm đó, bằng khả năng tiên tri và tài thao lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời ra lệnh cho tướng lĩnh của mình chuẩn bị bày đặt thế trận chiến tranh nhân dân chống lại sức mạnh "siêu phàm" của nước Mỹ với con át chủ bài không quân chiến lược, con ngáo ộp pháo đài bay B52.

Ngày 21 - 12 - 1958 Bác chủ trì hội nghị Bộ Chính trị thông qua kế hoạch xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng. Bác nêu thêm một số vấn đề rất mới và phải nói là rất sớm, đó là nghiên cứu kế hoạch phòng không nhân dân. Thượng tướng Phùng Thế Tài - nguyên tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh bộ đội phòng không cho biết"... Năm 1962... trong buổi gặp mặt hôm ấy Bác đã hỏi tôi (Phùng Thế Tài) "Bây giờ chú là tư lệnh phòng không vậy chú đã biết gì về B52 chưa... Chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B52 này...".

Cũng theo hồi ký của thượng tướng Phòng Thế Tài "Tháng 12 năm 1967... tôi được Bác gọi lên hỏi thăm tình hình. Ngay phút đầu tiên Bác đã hỏi về B52, nét mặt Bác đăm chiêu - Sớm muộn gì đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua, nó mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ thua - Bác nhìn ra cửa sổ chỉ lên bầu trời nói tiếp - Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây (tức trên bầu trời Hà Nội) Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề". Bản phương án đầu tiên đầu năm 1968 đánh trả cuộc tập kích B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng ra đời trong bối cảnh như thế" (6). Và lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên tri của Người. Năm 1972 sau thất bại thảm hại trong cuộc tập kích B52 mười hai ngày đêm vào thủ đô Hà Nội, ngày 27 - 1 - 1973 tại Pa-ri (Paris), hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện được lời dạy của Bác Hồ "Đánh cho Mỹ cút".

Cuộc chiến tranh Việt Nam là thất bại lớn nhất trong lịch sử 200 năm nước Mỹ. Chính Mác-na-ma-ra (Me Namara) nguyên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ dưới thời tổng thống Giôn-xơn (Johnson) phải chua chát thú nhận "Chúng tôi (tức Mỹ) đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp (7). Có lẽ viên cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ hối tiếc về một cơ hội hòa bình bị bỏ dở khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng chìa bàn tay nhân ái với nguyện vọng hòa bình cho cả Việt Nam và Mỹ, nhằm giải quyết chiến tranh Việt Nam trong danh dự, thì người Mỹ đã không nhận thấy để đón nhận bàn tay nhân từ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Chỉ có một cách đi tới giải pháp đó là Mỹ rút đi. Chúng tôi không muốn làm cái gì xấu đối với họ, chúng tôi sẵn sàng đem nhạc và hoa tiễn họ và mọi thứ khác mà họ thích..." (8) "Tôi xin mời ông Johnson đến Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư ký, người bác sĩ và người đầu bếp của mình, nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc! Tôi xin đảm bảo rằng: Tổng thống sẽ an toàn tuyệt đối"(9).

"...ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO"

"Mỹ cút" ắt hẳn "Ngụy nhào" đó là logíc biện chứng lịch sử đã từng diễn ra ở Việt Nam trước đó gần 30 năm (1945) gần hơn nữa cũng 20 năm (1954). Điều chúng tôi muốn nói là "Ngụy nhào" thì đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Ngày 30/4/1975 dân tộc Việt Nam đã "đọc trọn" bài thơ chúc tết cuối cùng của Bác. Trong niềm hân hoan thắng lợi đó, có ai ngờ rằng: ngày này (1975) cách đây 15 năm (1960) Bác Hồ đã dự định, đã tiên đoán một thắng lợi trọn vẹn sau cùng. Tôi lại một lần nữa sững sờ khi cầm trên tay bút tích của Bác. Lời bế mạc trong lễ quốc khánh 2/9/1960 tại nhà hát lớn thành phố Hà Nội có đoạn "Trong lúc chào mừng ngày quốc khánh vĩ đại lần thứ 15, chúng ta càng nhớ đến đồng bào miền nam đang anh dũng đấu tranh chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm. Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà"(10).

Chỉ có điều Bác khoanh lại (chứ không gạch bỏ) đoạn "chậm lắm là 15 năm nữa" và không đọc. Lý do vì sao cho đến nay không ai biết, nhưng theo chúng tôi: Bác muốn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tự phấn đấu, đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh để đến ngày giành thắng lợi, chứ không muốn chúng ta cứ ngồi chờ đến ngày thắng lợi! Như Người vẫn thường nói "Phải biết nhìn thấy: Khi nào mùa xuân sẽ đến"(11).

Kết thúc bài viết này cho phép tôi xin mượn câu nói của các nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng "Phải tìm hiểu tính độc đáo của tư duy phương Đông, một tư duy được đánh dấu bởi hoài bão tìm kiếm thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn, trực giác và tính tổng hợp"(12). Nhà xã hội học người Pháp Pôn Muyt (Paul Mus) có phần nào có lý khi ông đưa ra lập luận để nắm bắt qua Hồ Chí Minh "tâm linh" (Psyché). Còn chúng ta vẫn luôn gọi Người là Bác - Bác Hồ của chúng ta.

Huế 12.1998
C.H.H
(123/05-99)

------------------------------------------------------------------
(*) Thomas Jefferson sau trở thành Tổng thống thứ ba của nước Mỹ.
(1) Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử NXB Văn học 1977.
(2) Bác Hồ với Hà Tuyên - Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang. Tập I trang 74.
(3) Nghị quyết BCHTW Đảng lao động Việt Nam lần thứ 6 (Khóa II) 7 - 1954.
(4) Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 5 - 1994.
(5)Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Hà Nội ngày 8.5.1993 - dẫn theo Lê Cường.
(6) Bác Hồ với bộ đội phòng không - NXB sự thật 1992.
(7) RSMc Namara - Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia 1995.
(8), (9) Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris - Viện quan hệ quốc tế 1990.
(10) Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(11) Trích hồi ký của nhà văn Nga Vatali Ôdêrốp - Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Liên xô (cũ) dẫn theo Lê Cường - Tạp chí Xưa Nay số 46B tháng 12/1997
 (12) Xem: Hữu Ngọc - Phác thảo chân dung Văn hóa Pháp, NXB Ngoại văn Việt Nam, Hà Nội 1991 trang 18.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.