NGUYỄN VĂN HẠNH
Ảnh: chinhphu.vn
Việc dành ưu tiên cho khái niệm tính nhân dân trong hệ thống quan điểm lý luận nghệ thuật và mỹ học của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng tỏ sự nhạy cảm và sự hiểu biết sâu sắc của Bác không chỉ về tính chất của cách mạng Việt Nam trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định, mà còn về bản chất của văn học nghệ thuật cách mạng.
Thực tế và thời gian ngày càng chứng tỏ sự giản dị và quan điểm "truyền thống" của Bác lại chính là sự sáng suốt, tính nguyên tắc và sự tinh tế trong cách xem xét các vấn đề văn hóa nghệ thuật.
Xem văn hóa văn nghệ là một hoạt động thực tiễn, một hoạt động mang tính nhân dân sâu sắc, đương nhiên Bác không quan niệm văn hóa văn nghệ là một hiện tượng tĩnh tại với những yêu cầu, những phẩm chất cố định. Sự phát triển của văn hóa văn nghệ gắn liền với sự phát triển của xã hội, của thực tiễn cách mạng, của trình độ dân trí và nhu cầu của nhân dân về văn hóa nghệ thuật. Điều này thể hiện rõ ở các luận điểm của Bác: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy" từ cái phổ biến ấy, cái nền ấy mà nâng cao lên, làm cho văn nghệ của ta "ngày càng phong phú về tư tưởng và nghệ thuật". Trong bài nói chuyện tại Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam, Bác có nhắc lại với thái độ tán thành ý kiến của một phóng viên Liên Xô là khi sinh hoạt của nhân dân đã cao hơn, cần phải viết khác chứ không phải lúc nào cũng ngắn gọn, thiết thực; "Chớ viết khô khan quá. Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc".
Trong quan niệm của Bác về sự phát triển của văn hóa nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân, thật ra có hai phương diện, hai quá trình gắn bó với nhau, tạo điều kiện cho nhau: nghệ thuật phải được nhân dân hiểu và nhân dân phải hiểu được nghệ thuật. Đó phải là quan điểm của cách mạng về nghệ thuật, quan điểm của người nghệ sĩ cách mạng sáng tạo ra tác phẩm và của quần chúng cách mạng tiếp nhận tác phẩm đó. Cả người sáng tạo và người tiếp nhận phải là chủ thể tích cực, chủ động, có ý thức đến với nhau, và cùng phấn đấu vươn tới những đỉnh cao giá trị. Câu nói của Lênin về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân được Clara Xetkin dẫn lại mà gần đây giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu lại có lẽ cũng nên được nhận thức theo một tinh thần cách mạng và biện chứng như vậy,
Ngoài những vấn đề có ý nghĩa như nguyên tắc, như văn hóa nghệ thuật phải phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó v.v... thông thường khi bàn về văn hóa nghệ thuật, Bác không trình bày các ý kiến của mình như là chân lý hoặc những yêu cầu bắt buộc, mà như là phương pháp suy nghĩ và hành động, như những kinh nghiệm và lời khuyên. Ngay khi nêu một vấn đề quan trọng như phổ biến và nâng cao, Bác cũng nói: "Nêu ra để các cô các chú thảo luận". Đối chiếu thơ xưa và thơ nay Bác nêu lên ý kiến về thơ nay mà mọi người đều biết:
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia dã yếu hội xung phong
(Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong)
Ở đây suy nghĩ về thơ được trình bày như một mong muốn, một lời khuyên. Không nên cường điệu ý kiến này thành quan điểm chỉ đạo, thành "tuyên ngôn" về thơ hiện đại nói chung. Một mặt, Bác không hề phủ nhận hoặc chê bai loại thơ xưa "yêu cảnh thiên nhiên đẹp", mà chỉ ghi nhận một thực tế, nói lên một nhận xét, mặt khác Bác không đòi hỏi rằng thơ nay phải là thơ "có thép", chỉ có thể là thơ "thép", hoặc đã là nhà thơ thì phải "xung phong". Đây lại thêm một bằng chứng về quan niệm rất uyển chuyển của Bác về văn nghệ, một quan niệm luôn luôn tôn trọng sự suy nghĩ của người khác, tôn trọng sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật.
Một số nhà nghiên cứu đã nêu câu hỏi: Tại sao trong lý luận mác-xít về văn học nghệ thuật mấy mươi năm qua luôn luôn nhấn mạnh các vấn đề như tính đảng, phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa... nhưng Bác lại hầu như không đề cập các khái niệm này trong các bài phát biểu của mình về văn học nghệ thuật.
Trước hết phải nói rằng ý kiến của Bác khá đủ để hướng dẫn nghệ sĩ đi trên con đường lớn của văn nghệ cách mạng và những ý kiến này đều được dễ dàng mọi người chấp nhận. Điều này cũng chứng tỏ rằng có thể có một cách nói khác, thông qua những khái niệm và phạm trù khác, để nói về những vấn đề then chốt và cần thiết nhất của văn hóa văn nghệ. Những nhà lý luận chuyên nghiệp không thể không suy nghĩ về thực tế này.
Cũng có thể với tư cách của một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo Đảng, Bác không có điều kiện và cũng không muốn đi sâu vào những vấn đề chuyên môn, những vấn đề khoa học của lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Trong những vấn đề đã nêu ở trên có vấn đề có thể nói dưới một dạng khác như vấn đề tính đảng, có những vấn đề không nhất thiết người lãnh đạo chính trị phải đề cập như vấn đề phương pháp sáng tác, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cách nói uyển chuyển "dân dã" của Bác, cũng như sự "dừng lại" của Bác trước những vấn đề nghề nghiệp chuyên sâu như vậy - càng chứng tỏ Bác là một nhà lãnh đạo chính trị sáng suốt, hiểu rõ công việc của mình.
Bác viết văn, làm thơ nhiều, và có nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc. Nhưng tự mình, Bác không nhận mình là một nhà thơ, một nhà văn nghệ. Có lần Bác nói "Nếu quả thực tôi là một nhà thơ, hẳn tôi không thể sống mà không sáng tác... Còn tôi... tôi có thể sống thoải mái mà không cần phải làm thơ. Và trước khi ở tù, cũng như sau khi ra tù, tôi đã sống mà không làm thơ"(1). Một lần khác Bác lại nói về mình: "Tôi là cây bút tiểu phẩm, nhà chính luận, gọi tôi là người tuyên truyền tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp - là đúng nhất"(2). Không nên chỉ thấy ở đây thái độ khiêm tốn của một vĩ nhân. Bác đòi hỏi phải nhận thức chính xác về chuyên môn nghề nghiệp, Bác có những yêu cầu cao về thiên chức của người làm văn nghệ. Trong bài nói chuyện tại buổi bế mạc đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, Bác phân biệt ở mình hai "địa vị": địa vị "một người yêu chuộng văn nghệ" và địa vị "một người chính trị". Trên "danh nghĩa một người yêu chuộng văn nghệ", Bác chúc mừng đại hội, nêu những nhận xét của mình về tình hình văn nghệ, trình bày những ý kiến về tình hình đất nước, cuộc sống của nhân dân. Rồi Bác kết thúc bài nói chuyện như sau: "Phần trước là tôi đứng về địa vị một người yêu chuộng văn nghệ mà nói. Bây giờ đứng về địa vị một người chính trị tôi xin hứa rằng Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ cố gắng trong khả năng của mình, giúp đỡ văn nghệ tiến lên(3). Có bao nhiêu điều đáng cho chúng ta suy nghĩ từ thái độ đó, từ một cách tiếp cận như vậy đối với lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đối với những người làm văn hóa văn nghệ, về cách lãnh đạo văn hóa văn nghệ, về quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.
Trong văn hoá văn nghệ cũng như trong các lĩnh vực khác của công tác cách mạng, di sản của Bác để lại cho chúng ta, không chỉ gói gọn trong những quan điểm, tư tưởng của Bác về văn hóa văn nghệ, mà còn nằm trong phương pháp, trong thái độ tiếp cận, ứng xử của Bác đối với những vấn đề văn hoá văn nghệ, đối với trí thức văn nghệ sĩ.
Nhà thơ xô viết nổi tiếng Ôxip Mandenxtam trong lần gặp Bác vào cuối năm 1923 ở Liên Xô, lúc bấy giờ Bác mới hơn 30 tuổi, đã có một nhận xét đáng suy nghĩ: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai"(4).
Cái gì ở Bác đã khiến cho một nhà thơ xô viết đầy tài năng này không trực tiếp nghĩ đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường hay tính tất thắng của một sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà lại nghĩ đến văn hóa, đến một nền văn hóa tương lai? Ở người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ không chỉ nhìn thấy lòng yêu nước và thái độ căm thù quân xâm lược, mà chính là một nhân cách lớn, một cách suy nghĩ mới mẻ, một nhãn quan văn hóa sâu rộng qua những lời tâm sự, những nhận xét, những câu trả lời chân tình, đặc sắc, đầy tự tin nhưng cũng hết sức tinh tế của Bác về đất nước và nhân dân, về bản thân và gia đình, về dân tộc mình và các dân tộc khác, về phong trào của Gandi, về lý luận của Khổng Tử, về Rousseau và Montesquieu, về "văn minh" của bọn cướp nước mà bao giờ Bác cũng nói đến với một thái độ phẫn nộ và đầy khinh bỉ... Với tư cách là một nhà thơ, có lẽ điều mà Mandenxtam cảm thấy đặc biệt hấp dẫn ở Bác, điều đã khiến cho nhà thơ nghĩ đến văn hoá, đến một nền văn hóa tương lai là ở chỗ này "dân tộc Việt Nam đáng yêu, một dân tộc lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá. Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị"(5).
Nếu như văn hóa thể hiện trước hết trong quan hệ giữa người và người, nếu như văn hóa bắt đầu từ chỗ vượt ra khỏi "chủ nghĩa cá nhân và sự trói buộc của hoàn cảnh hạn hẹp để có thể đến với người khác, hiểu và quí trọng những cái khác mình - thì thái độ ghét những cái thái quá, sự độ lượng, lịch thiệp, tế nhị, quả là những biểu hiện rất đặc trưng của văn hóa.
Nhận xét của Mandenxtam về Bác là một nhận xét rất độc đáo, mà lại rất cơ bản và chính xác, nhà thơ thật sự là "có con mắt tinh đời". Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu về Bác đã rất tâm đắc với ý kiến này.
Có thể nói, trong những phát biểu về văn hóa văn nghệ, cũng như khi tiếp xúc với giới văn hóa văn nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề cụ thể về văn hóa văn nghệ, Bác không chỉ đứng ở tư cách một nhà chính trị, một người yêu chuộng văn nghệ mà còn đứng ở tư cách một nhà văn hóa, với thái độ giúp đỡ đầy trách nhiệm, hiểu biết, chân tình, độ lượng, lịch thiệp và tế nhị.
Là một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chủ yếu phương diện chính trị của hoạt động văn hóa văn nghệ, những yêu cầu khách quan, yêu cầu chung của cách mạng, của nhân dân đối với hoạt động này. Nếu có nói đến chủ thể sáng tạo, Bác cũng chú ý trước tiên vấn đề lập trường quan điểm chính trị của nghệ sĩ. Nền văn nghệ mà Bác Hồ cổ vũ là hướng vào thực hiện những mục tiêu chung của cách mạng, một vũ khí tư tưởng, một công cụ giáo dục. Với một quan điểm chung như vậy về văn nghệ, nhất là nền văn nghệ này lại phát triển chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh chính trị trong hoàn cảnh chiến tranh, Bác ít chú ý đến những nhân tố đặc thù của lĩnh vực này như tài năng, cá tính, tự do sáng tạo. Sự phong phú đa dạng mà Bác nói đến trước hết là sự phong phú đa dạng của thực tế khách quan, của nhu cầu nhân dân đối với văn hoá nghệ thuật, chứ chưa phải là sự phong phú đa dạng của chủ thể sáng tạo, của tài năng, của cá tính nghệ sĩ. Có cơ sở để nói rằng Bác nhấn mạnh chức năng giáo dục, chức năng miêu tả (phản ánh) của văn nghệ, mà chưa quan tâm nhiều đến chức năng nhận thức (và tự nhận thức) theo nghĩa chặt chẽ của nó, chức năng thẩm mỹ và hầu như không nói đến chức năng biểu hiện (và tự biểu hiện) của văn nghệ. Khi cuộc sống chuyển trọng tâm từ đấu tranh chính trị sang xây dựng kinh tế và văn hóa, từ sinh hoạt không bình thường trong chiến tranh sang sinh hoạt bình thường trong hòa bình; khi văn nghệ có nhu cầu và có điều kiện phát huy sức mạnh riêng của nó, bộc lộ đầy đủ hơn bản chất của nó, thì những vấn đề trên đây càng trở nên đương nhiên và phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
N.V.H
(TCSH55/05&6-1993)
---------------------
(1), (2) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 513-514.
(3) Về công tác văn hoá văn nghệ. - Sđd, trang 35.
(4), (5) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 478.
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.