NGUYỄN VĂN HẠNH
Ảnh: chinhphu.vn
Việc dành ưu tiên cho khái niệm tính nhân dân trong hệ thống quan điểm lý luận nghệ thuật và mỹ học của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng tỏ sự nhạy cảm và sự hiểu biết sâu sắc của Bác không chỉ về tính chất của cách mạng Việt Nam trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định, mà còn về bản chất của văn học nghệ thuật cách mạng.
Thực tế và thời gian ngày càng chứng tỏ sự giản dị và quan điểm "truyền thống" của Bác lại chính là sự sáng suốt, tính nguyên tắc và sự tinh tế trong cách xem xét các vấn đề văn hóa nghệ thuật.
Xem văn hóa văn nghệ là một hoạt động thực tiễn, một hoạt động mang tính nhân dân sâu sắc, đương nhiên Bác không quan niệm văn hóa văn nghệ là một hiện tượng tĩnh tại với những yêu cầu, những phẩm chất cố định. Sự phát triển của văn hóa văn nghệ gắn liền với sự phát triển của xã hội, của thực tiễn cách mạng, của trình độ dân trí và nhu cầu của nhân dân về văn hóa nghệ thuật. Điều này thể hiện rõ ở các luận điểm của Bác: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy" từ cái phổ biến ấy, cái nền ấy mà nâng cao lên, làm cho văn nghệ của ta "ngày càng phong phú về tư tưởng và nghệ thuật". Trong bài nói chuyện tại Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam, Bác có nhắc lại với thái độ tán thành ý kiến của một phóng viên Liên Xô là khi sinh hoạt của nhân dân đã cao hơn, cần phải viết khác chứ không phải lúc nào cũng ngắn gọn, thiết thực; "Chớ viết khô khan quá. Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc".
Trong quan niệm của Bác về sự phát triển của văn hóa nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân, thật ra có hai phương diện, hai quá trình gắn bó với nhau, tạo điều kiện cho nhau: nghệ thuật phải được nhân dân hiểu và nhân dân phải hiểu được nghệ thuật. Đó phải là quan điểm của cách mạng về nghệ thuật, quan điểm của người nghệ sĩ cách mạng sáng tạo ra tác phẩm và của quần chúng cách mạng tiếp nhận tác phẩm đó. Cả người sáng tạo và người tiếp nhận phải là chủ thể tích cực, chủ động, có ý thức đến với nhau, và cùng phấn đấu vươn tới những đỉnh cao giá trị. Câu nói của Lênin về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân được Clara Xetkin dẫn lại mà gần đây giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu lại có lẽ cũng nên được nhận thức theo một tinh thần cách mạng và biện chứng như vậy,
Ngoài những vấn đề có ý nghĩa như nguyên tắc, như văn hóa nghệ thuật phải phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó v.v... thông thường khi bàn về văn hóa nghệ thuật, Bác không trình bày các ý kiến của mình như là chân lý hoặc những yêu cầu bắt buộc, mà như là phương pháp suy nghĩ và hành động, như những kinh nghiệm và lời khuyên. Ngay khi nêu một vấn đề quan trọng như phổ biến và nâng cao, Bác cũng nói: "Nêu ra để các cô các chú thảo luận". Đối chiếu thơ xưa và thơ nay Bác nêu lên ý kiến về thơ nay mà mọi người đều biết:
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia dã yếu hội xung phong
(Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong)
Ở đây suy nghĩ về thơ được trình bày như một mong muốn, một lời khuyên. Không nên cường điệu ý kiến này thành quan điểm chỉ đạo, thành "tuyên ngôn" về thơ hiện đại nói chung. Một mặt, Bác không hề phủ nhận hoặc chê bai loại thơ xưa "yêu cảnh thiên nhiên đẹp", mà chỉ ghi nhận một thực tế, nói lên một nhận xét, mặt khác Bác không đòi hỏi rằng thơ nay phải là thơ "có thép", chỉ có thể là thơ "thép", hoặc đã là nhà thơ thì phải "xung phong". Đây lại thêm một bằng chứng về quan niệm rất uyển chuyển của Bác về văn nghệ, một quan niệm luôn luôn tôn trọng sự suy nghĩ của người khác, tôn trọng sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật.
Một số nhà nghiên cứu đã nêu câu hỏi: Tại sao trong lý luận mác-xít về văn học nghệ thuật mấy mươi năm qua luôn luôn nhấn mạnh các vấn đề như tính đảng, phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa... nhưng Bác lại hầu như không đề cập các khái niệm này trong các bài phát biểu của mình về văn học nghệ thuật.
Trước hết phải nói rằng ý kiến của Bác khá đủ để hướng dẫn nghệ sĩ đi trên con đường lớn của văn nghệ cách mạng và những ý kiến này đều được dễ dàng mọi người chấp nhận. Điều này cũng chứng tỏ rằng có thể có một cách nói khác, thông qua những khái niệm và phạm trù khác, để nói về những vấn đề then chốt và cần thiết nhất của văn hóa văn nghệ. Những nhà lý luận chuyên nghiệp không thể không suy nghĩ về thực tế này.
Cũng có thể với tư cách của một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo Đảng, Bác không có điều kiện và cũng không muốn đi sâu vào những vấn đề chuyên môn, những vấn đề khoa học của lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Trong những vấn đề đã nêu ở trên có vấn đề có thể nói dưới một dạng khác như vấn đề tính đảng, có những vấn đề không nhất thiết người lãnh đạo chính trị phải đề cập như vấn đề phương pháp sáng tác, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cách nói uyển chuyển "dân dã" của Bác, cũng như sự "dừng lại" của Bác trước những vấn đề nghề nghiệp chuyên sâu như vậy - càng chứng tỏ Bác là một nhà lãnh đạo chính trị sáng suốt, hiểu rõ công việc của mình.
Bác viết văn, làm thơ nhiều, và có nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc. Nhưng tự mình, Bác không nhận mình là một nhà thơ, một nhà văn nghệ. Có lần Bác nói "Nếu quả thực tôi là một nhà thơ, hẳn tôi không thể sống mà không sáng tác... Còn tôi... tôi có thể sống thoải mái mà không cần phải làm thơ. Và trước khi ở tù, cũng như sau khi ra tù, tôi đã sống mà không làm thơ"(1). Một lần khác Bác lại nói về mình: "Tôi là cây bút tiểu phẩm, nhà chính luận, gọi tôi là người tuyên truyền tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp - là đúng nhất"(2). Không nên chỉ thấy ở đây thái độ khiêm tốn của một vĩ nhân. Bác đòi hỏi phải nhận thức chính xác về chuyên môn nghề nghiệp, Bác có những yêu cầu cao về thiên chức của người làm văn nghệ. Trong bài nói chuyện tại buổi bế mạc đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, Bác phân biệt ở mình hai "địa vị": địa vị "một người yêu chuộng văn nghệ" và địa vị "một người chính trị". Trên "danh nghĩa một người yêu chuộng văn nghệ", Bác chúc mừng đại hội, nêu những nhận xét của mình về tình hình văn nghệ, trình bày những ý kiến về tình hình đất nước, cuộc sống của nhân dân. Rồi Bác kết thúc bài nói chuyện như sau: "Phần trước là tôi đứng về địa vị một người yêu chuộng văn nghệ mà nói. Bây giờ đứng về địa vị một người chính trị tôi xin hứa rằng Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ cố gắng trong khả năng của mình, giúp đỡ văn nghệ tiến lên(3). Có bao nhiêu điều đáng cho chúng ta suy nghĩ từ thái độ đó, từ một cách tiếp cận như vậy đối với lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đối với những người làm văn hóa văn nghệ, về cách lãnh đạo văn hóa văn nghệ, về quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.
Trong văn hoá văn nghệ cũng như trong các lĩnh vực khác của công tác cách mạng, di sản của Bác để lại cho chúng ta, không chỉ gói gọn trong những quan điểm, tư tưởng của Bác về văn hóa văn nghệ, mà còn nằm trong phương pháp, trong thái độ tiếp cận, ứng xử của Bác đối với những vấn đề văn hoá văn nghệ, đối với trí thức văn nghệ sĩ.
Nhà thơ xô viết nổi tiếng Ôxip Mandenxtam trong lần gặp Bác vào cuối năm 1923 ở Liên Xô, lúc bấy giờ Bác mới hơn 30 tuổi, đã có một nhận xét đáng suy nghĩ: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai"(4).
Cái gì ở Bác đã khiến cho một nhà thơ xô viết đầy tài năng này không trực tiếp nghĩ đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường hay tính tất thắng của một sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà lại nghĩ đến văn hóa, đến một nền văn hóa tương lai? Ở người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ không chỉ nhìn thấy lòng yêu nước và thái độ căm thù quân xâm lược, mà chính là một nhân cách lớn, một cách suy nghĩ mới mẻ, một nhãn quan văn hóa sâu rộng qua những lời tâm sự, những nhận xét, những câu trả lời chân tình, đặc sắc, đầy tự tin nhưng cũng hết sức tinh tế của Bác về đất nước và nhân dân, về bản thân và gia đình, về dân tộc mình và các dân tộc khác, về phong trào của Gandi, về lý luận của Khổng Tử, về Rousseau và Montesquieu, về "văn minh" của bọn cướp nước mà bao giờ Bác cũng nói đến với một thái độ phẫn nộ và đầy khinh bỉ... Với tư cách là một nhà thơ, có lẽ điều mà Mandenxtam cảm thấy đặc biệt hấp dẫn ở Bác, điều đã khiến cho nhà thơ nghĩ đến văn hoá, đến một nền văn hóa tương lai là ở chỗ này "dân tộc Việt Nam đáng yêu, một dân tộc lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá. Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị"(5).
Nếu như văn hóa thể hiện trước hết trong quan hệ giữa người và người, nếu như văn hóa bắt đầu từ chỗ vượt ra khỏi "chủ nghĩa cá nhân và sự trói buộc của hoàn cảnh hạn hẹp để có thể đến với người khác, hiểu và quí trọng những cái khác mình - thì thái độ ghét những cái thái quá, sự độ lượng, lịch thiệp, tế nhị, quả là những biểu hiện rất đặc trưng của văn hóa.
Nhận xét của Mandenxtam về Bác là một nhận xét rất độc đáo, mà lại rất cơ bản và chính xác, nhà thơ thật sự là "có con mắt tinh đời". Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu về Bác đã rất tâm đắc với ý kiến này.
Có thể nói, trong những phát biểu về văn hóa văn nghệ, cũng như khi tiếp xúc với giới văn hóa văn nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề cụ thể về văn hóa văn nghệ, Bác không chỉ đứng ở tư cách một nhà chính trị, một người yêu chuộng văn nghệ mà còn đứng ở tư cách một nhà văn hóa, với thái độ giúp đỡ đầy trách nhiệm, hiểu biết, chân tình, độ lượng, lịch thiệp và tế nhị.
Là một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chủ yếu phương diện chính trị của hoạt động văn hóa văn nghệ, những yêu cầu khách quan, yêu cầu chung của cách mạng, của nhân dân đối với hoạt động này. Nếu có nói đến chủ thể sáng tạo, Bác cũng chú ý trước tiên vấn đề lập trường quan điểm chính trị của nghệ sĩ. Nền văn nghệ mà Bác Hồ cổ vũ là hướng vào thực hiện những mục tiêu chung của cách mạng, một vũ khí tư tưởng, một công cụ giáo dục. Với một quan điểm chung như vậy về văn nghệ, nhất là nền văn nghệ này lại phát triển chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh chính trị trong hoàn cảnh chiến tranh, Bác ít chú ý đến những nhân tố đặc thù của lĩnh vực này như tài năng, cá tính, tự do sáng tạo. Sự phong phú đa dạng mà Bác nói đến trước hết là sự phong phú đa dạng của thực tế khách quan, của nhu cầu nhân dân đối với văn hoá nghệ thuật, chứ chưa phải là sự phong phú đa dạng của chủ thể sáng tạo, của tài năng, của cá tính nghệ sĩ. Có cơ sở để nói rằng Bác nhấn mạnh chức năng giáo dục, chức năng miêu tả (phản ánh) của văn nghệ, mà chưa quan tâm nhiều đến chức năng nhận thức (và tự nhận thức) theo nghĩa chặt chẽ của nó, chức năng thẩm mỹ và hầu như không nói đến chức năng biểu hiện (và tự biểu hiện) của văn nghệ. Khi cuộc sống chuyển trọng tâm từ đấu tranh chính trị sang xây dựng kinh tế và văn hóa, từ sinh hoạt không bình thường trong chiến tranh sang sinh hoạt bình thường trong hòa bình; khi văn nghệ có nhu cầu và có điều kiện phát huy sức mạnh riêng của nó, bộc lộ đầy đủ hơn bản chất của nó, thì những vấn đề trên đây càng trở nên đương nhiên và phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
N.V.H
(TCSH55/05&6-1993)
---------------------
(1), (2) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 513-514.
(3) Về công tác văn hoá văn nghệ. - Sđd, trang 35.
(4), (5) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 478.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.