“Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, 1 trong 3 sáng lập viên của tờ tạp chí Cửa Việt nức tiếng một thời của miền Trung, chia sẻ với phóng viên Lao Động những trăn trở của ông về đất và người Trung Bộ...
“Tính cách và phẩm chất miền Trung rất hợp với tinh thần báo chí”
Là người từng tham gia sáng lập ra tạp chí Cửa Việt vào thời kỳ đầu Đổi Mới, ông có thể nhớ lại không khí làm báo và sinh hoạt văn chương lúc đó? Vì sao một tờ báo địa phương ở mảnh đất nghèo miền Trung lại có sức hút mãnh liệt những cây bút đình đám trong và cả ngoài nước trong suốt một thời gian khá dài như vậy?
Sau khi chia tỉnh Bình Trị Thiên cuối năm 1989, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về Quảng Trị làm Chủ tịch Hội VHNT tỉnh, và ông nghĩ ngay đến việc phải ra tờ tạp chí để hội tụ những người làm VHNT. Ông rủ tôi và nhà văn Nguyễn Quang Lập về làm phó cho ông, và cùng làm tạp chí. Nhưng tôi vẫn ở lại Huế, chỉ nhận “làm thêm” cho Quảng Trị mà thôi. Tuy nhiên, tôi vừa phải làm biên tập, vừa phụ trách mỹ thuật, lại làm cả công việc lên trang mục cho từng số như một thư ký tòa soạn thực thụ. Và chúng tôi đã chọn thời điểm ra tạp chí Cửa Việt số đầu tiên vào dịp Tết Canh Ngọ (1990).
Trước khi ra tạp chí là lúc diễn ra đại hội nhà văn VN, nên chúng tôi đã gặp nhiều nhà văn nhà báo nổi tiếng trong nước để kêu gọi cộng tác với Cửa Việt. Nhiều nhà văn nhiệt liệt ủng hộ, thậm chí nhà phê bình Ngô Thảo (quê Quảng Trị) còn tình nguyện nhận làm đại diện tại Hà Nội. Không khí văn nghệ hồi đó khá thẳng thắn với tinh thần Đổi Mới mạnh mẽ và có nhiều quan điểm khác nhau, nên việc ra tờ tạp chí như một “sân chơi văn nghệ” là thuận nhiều mặt. Cửa Việt vừa ra số đầu tiên đã gây tiếng vang lớn ra tận hải ngoại, vì những vấn đề nóng trong VHNT được chú trọng. Mục “Sự kiện và đối thoại” là mục mở đầu tạp chí với logo có hình con Nhân Sư là mục được nhiều nhân vật quan trọng tham gia theo lời mời của tòa soạn. Trong đó, có không ít bài viết được dành riêng cho Cửa Việt nói rất mạnh về đổi mới VHNT, gây hứng khởi cho giới văn nghệ và bạn đọc rộng khắp.
Cái tên “Cửa Việt” là do ai nghĩ ra? Mượn một địa danh của địa phương nhưng đồng thời cũng mang một hàm ý rộng dài hơn thế, có phải chính là để chất chở “tham vọng” của những người làm Cửa Việt?
Trong các cuộc đàm đạo văn nghệ, chúng tôi đề nghị thi đặt tên cho tạp chí. Có nhiều tên được đưa ra: Cửa Tùng, Hiền Lương, Thạch Hãn… Cuối cùng thì nhà thơ Lê Bá Tạo (lúc bấy giờ là Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Quảng Trị) hiến cho cái tên Cửa Việt. Việt ở đây có nghĩa là Vượt, cũng có nghĩa là Việt Nam. Cái hàm ý này được mọi người tán thưởng ngay, và người đặt tên được nhận thưởng 10.000 VND. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nói vui rằng: Đừng gọi mười nghìn, mà gọi một vạn cho nó sang. Và để cho sang hơn nữa, chúng tôi đã mời họa sĩ Hoàng Ngọc Biên, người Quảng Trị từng học họa ở nước ngoài vẽ mẫu măng-sét và logo cho Cửa Việt.
Cửa Việt đã trải qua một số phận khá truân chuyên để trả giá cho quyền được nói của mình, như chính thơ ông từng viết: “Tôi sống thời không thể đứng quay lưng/Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày dường đổi mới/ Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn”, “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi”... Kỷ niệm nào là đáng nhớ nhất với ông trong quãng thời gian làm báo ngắn ngủi nhưng khó quên đó?
Kỷ niệm khó quên đối với Cửa Việt thì nhiều, nhưng đáng nhớ nhất là những lần bị cấp trên “nhắc nhở”. Khi thì vì một bài thơ buồn sau chiến tranh, khi thì đăng bài của một nhân vật “có vấn đề”, khi thì đăng bài ngoài tỉnh nhiều... Nhưng kỷ niệm đau nhất là sự kiện đăng bài “Bàn tròn với Lê Ngọc Trà” (số 16). Sau khi báo ra, người ta quy là “hội thảo không phép”, và bị một tờ báo T.Ư đăng ngay bài phê phán với cái tít rất nặng nề “Quả đạn tù mù có nhiều khói độc trên tạp chí Cửa Việt”, khiến lãnh đạo tỉnh rất lo lắng. Cố nhạc sĩ Trần Hoàn lúc đó là Bộ trưởng Bộ VHTT nói với tôi: “Bay làm vừa vừa thôi!”. Ông Bí thư tỉnh nói với tòa soạn, tạp chí có thể bị đình chỉ. Còn ông bố vợ tôi, nguyên là cán bộ cao cấp, có Huân chương Độc lập và Huân chương Hồ Chí Minh thì tìm đọc kỹ lại Cửa Việt (vì ông người Quảng Trị) thì ngạc nhiên bảo: “Tôi đọc mãi có thấy “khói độc” gì đâu!”.
Tuy vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Lập và tôi vẫn tiếp tục làm số 17 với một tinh thần tự tin, mạnh mẽ nhưng cẩn trọng hơn. Khi số 17 đã vào nhà in thì nghe nói đã có lệnh đình chỉ Cửa Việt, nhưng số 17 vẫn được phát hành. Đó là số cuối cùng của Cửa Việt - bộ đầu tiên. Sau đó nghe tin Thư viện hoàng gia Anh đã có trọn bộ Cửa Việt. Một nhà nghiên cứu lịch sử, mẹ vợ của đạo diễn điện ảnh Trần Anh Hùng từ nước ngoài về cũng nhờ tôi tìm mua cho bà đủ 17 số...
Không ít nhà báo lớn của đất nước là trưởng thành từ mảnh đất miền Trung. Ông có cho rằng điều đó có được là nhờ điểm gặp giữa tính cách vùng và phẩm chất tối cần ở một nhà báo: sự thẳng thắn, không khoan nhượng?
Chị nói đúng. Tôi cũng nghĩ tính cách và phẩm chất miền Trung rất hợp với tinh thần báo chí, nhưng người miền Trung cũng giàu lãng mạn và hài hước đấy chứ! Một Nguyễn Du, một Nguyễn Công Trứ hay một Hồ Xuân Hương cũng đủ làm cho bao người suy ngẫm về tính cách và phẩm chất miền Trung. Họ dám nhìn thẳng vào sự thật của đời sống, dám ca ngợi và phê phán với một tấm lòng đầy yêu thương, tình nghĩa. Thẳng thắn, không khoan nhượng đến độ gàn, nhưng lãng mạn, nghĩa tình thì cũng dễ mấy ai bằng...
![]() |
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường & Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tại Thành Cổ Quảng Trị năm 1991 |
Nếu “chim không đậu”, thì phải xem lại “đất có lành” không?
Cửa Việt nói riêng và báo chí chính thống nói chung hiện nay có thể nói là đã qua mất rồi cái gọi là “thiên thời, địa lợi…” trước sự phát triển lấn át của mạng xã hội và báo mạng cùng truyền thông đa phương tiện. Ngoài nguyên nhân đó, ông nghĩ, còn những nguyên nhân nào khác khiến “đất lành” xưa hiện không còn thu hút được nhiều “chim đậu” nữa?
Báo mạng hay mạng xã hội phát triển mạnh vì người ta cần thông tin nhanh, thông tin xã hội và thông tin cá nhân, nhưng có thể nay còn, mai mất. Riêng tôi vẫn đánh giá cao vai trò của báo giấy, nếu báo giấy bảo đảm được chất lượng của nó, nghĩa là nói trúng, nói sâu, nói hay về đời sống xã hội, thân phận con người. Nếu nói đất lành mà chim không đậu, thì phải xem lại đất có lành không? Báo chí hiện nay về mặt bằng là đồng đều Bắc Trung Nam, nó phản ánh sự hiện diện khá phiến diện của nó. Có thể do một số nhà báo đã biến dạng hoặc do quản lý báo đặt mức an toàn quá cao. Hình như cả người viết lẫn nhà quản lý luôn lo lắng về những “sự cố” không an toàn cho chính họ. Đó là sự hạn chế động lực của báo giấy. Nhưng tôi vẫn tin, báo chí không thể né tránh sự thật, dù sự thật đau lòng.
Theo ông, đó có là một mất mát lớn của một miền đất có tiếng là đất học - đất chữ, đất thơ - đất nhạc như miền Trung? Điều gì theo ông có thể giúp có lại?
Như tôi đã nói, nếu có mất mát thì là mất mát chung chứ đâu chỉ riêng miền Trung. Tuy nhiên cái “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt” này không thể thu hút nhân tài bằng các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được. Điều đó nói rằng, miền Trung cần xốc lại mình, cần sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan đầu não với những hoạch định chiến lược tầm cỡ hơn để có những trung tâm thu hút nhân tài nhiều hơn nữa, mạnh hơn nữa. Có thế mới gọi là “đất lành” được!
Ông nghĩ sao khi kinh tế miền Trung thì phát triển hơn, nhà cửa thì khang trang hơn, con người cũng hiện đại hơn, hay mùa thi ĐH vừa qua đã chứng kiến một mùa bội thu của Nghệ An với 12 thủ khoa ĐH…, nhưng thơ văn miền Trung thì lại dần mất tiếng vang và chỗ đứng?
Nên nhớ thời Huế là kinh đô, thì những người tài cũng tập trung về đây. Hầu hết các nhà thơ lớn của thời kỳ Thơ Mới đều nổi lên từ Huế. Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Và nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước. Có thể nói, chỗ đứng của tinh thần miền Trung không chỉ ở miền Trung.
Từng có đề nghị giải thể các hội văn nghệ địa phương vì nhiều hội chỉ hoạt động cầm chừng không hiệu quả và cho thấy sự trì trệ của cơ chế bao cấp còn rơi rớt, ông thấy sao?
Tôi nghĩ các hội VHNT ở địa phương hay Trung ương nó đều giống một mái nhà, một sân chơi cho văn nghệ sĩ hội tụ, giao lưu mà thôi. Còn việc sáng tạo VHNT lại là một chuyện khác, chuyện của mỗi cá nhân. Ở các nước tiên tiến, người ta có nhiều chương trình bảo trợ văn hóa rất lớn như SIDA của Thụy Điển, TOYOTA của Nhật Bản hay FORD của Mỹ. Họ không chỉ bảo trợ các hoạt động trong nước mà còn bảo trợ quốc tế. Vấn đề là anh sử dụng các quỹ đó thế nào cho hiệu quả mà thôi.
Rất hiếm tờ báo hiện nay dành đất cho thơ văn, trong khi một thời hầu như báo lớn nào cũng có. Là người từng chứng kiến Cửa Việt ở những ngày đầu cũng như Phụ trương THƠ của báo Văn Nghệ thời văn chương còn có giá, ông có thể nói gì về những gì chúng ta đã để mất hoặc không còn biết quý? Thiếu đi hành trang tinh thần đó, người miền Trung nói riêng và người Việt mình nói chung sẽ đi về đâu, theo ông?
Theo tôi, vấn đề quan trọng để làm nên những giá trị tinh thần mạnh mẽ vẫn chính là con người. Con người là trọng yếu trong “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Một ông vua giỏi bao giờ cũng trọng dụng nhân tài. Và những người tài cũng có thể làm thay đổi một ông vua dốt. Nhưng vua và người tài kỵ nhau, thì sẽ không bao giờ có “nhân hòa” cả. Đó là sự tối kỵ…
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: Thiên An - LĐ
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.