Chỗ đứng của tinh thần miền Trung không chỉ ở miền Trung

15:39 16/09/2014

“Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, 1 trong 3 sáng lập viên của tờ tạp chí Cửa Việt nức tiếng một thời của miền Trung, chia sẻ với phóng viên Lao Động những trăn trở của ông về đất và người Trung Bộ...

“Tính cách và phẩm chất miền Trung rất hợp với tinh thần báo chí”

Là người từng tham gia sáng lập ra tạp chí Cửa Việt vào thời kỳ đầu Đổi Mới, ông có thể nhớ lại không khí làm báo và sinh hoạt văn chương lúc đó? Vì sao một tờ báo địa phương ở mảnh đất nghèo miền Trung lại có sức hút mãnh liệt những cây bút đình đám trong và cả ngoài nước trong suốt một thời gian khá dài như vậy?

Sau khi chia tỉnh Bình Trị Thiên cuối năm 1989, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về Quảng Trị làm Chủ tịch Hội VHNT tỉnh, và ông nghĩ ngay đến việc phải ra tờ tạp chí để hội tụ những người làm VHNT. Ông rủ tôi và nhà văn Nguyễn Quang Lập về làm phó cho ông, và cùng làm tạp chí. Nhưng tôi vẫn ở lại Huế, chỉ nhận “làm thêm” cho Quảng Trị mà thôi. Tuy nhiên, tôi vừa phải làm biên tập, vừa phụ trách mỹ thuật, lại làm cả công việc lên trang mục cho từng số như một thư ký tòa soạn thực thụ. Và chúng tôi đã chọn thời điểm ra tạp chí Cửa Việt số đầu tiên vào dịp Tết Canh Ngọ (1990).

Trước khi ra tạp chí là lúc diễn ra đại hội nhà văn VN, nên chúng tôi đã gặp nhiều nhà văn nhà báo nổi tiếng trong nước để kêu gọi cộng tác với Cửa Việt. Nhiều nhà văn nhiệt liệt ủng hộ, thậm chí nhà phê bình Ngô Thảo (quê Quảng Trị) còn tình nguyện nhận làm đại diện tại Hà Nội. Không khí văn nghệ hồi đó khá thẳng thắn với tinh thần Đổi Mới mạnh mẽ và có nhiều quan điểm khác nhau, nên việc ra tờ tạp chí như một “sân chơi văn nghệ” là thuận nhiều mặt. Cửa Việt vừa ra số đầu tiên đã gây tiếng vang lớn ra tận hải ngoại, vì những vấn đề nóng trong VHNT được chú trọng. Mục “Sự kiện và đối thoại” là mục mở đầu tạp chí với logo có hình con Nhân Sư là mục được nhiều nhân vật quan trọng tham gia theo lời mời của tòa soạn. Trong đó, có không ít bài viết được dành riêng cho Cửa Việt nói rất mạnh về đổi mới VHNT, gây hứng khởi cho giới văn nghệ và bạn đọc rộng khắp.

Cái tên “Cửa Việt” là do ai nghĩ ra? Mượn một địa danh của địa phương nhưng đồng thời cũng mang một hàm ý rộng dài hơn thế, có phải chính là để chất chở “tham vọng” của những người làm Cửa Việt?

Trong các cuộc đàm đạo văn nghệ, chúng tôi đề nghị thi đặt tên cho tạp chí. Có nhiều tên được đưa ra: Cửa Tùng, Hiền Lương, Thạch Hãn… Cuối cùng thì nhà thơ Lê Bá Tạo (lúc bấy giờ là Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Quảng Trị) hiến cho cái tên Cửa Việt. Việt ở đây có nghĩa là Vượt, cũng có nghĩa là Việt Nam. Cái hàm ý này được mọi người tán thưởng ngay, và người đặt tên được nhận thưởng 10.000 VND. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc  Tường còn nói vui rằng: Đừng gọi mười nghìn, mà gọi một vạn cho nó sang. Và để cho sang hơn nữa, chúng tôi đã mời họa sĩ Hoàng Ngọc Biên, người Quảng Trị từng học họa ở nước ngoài vẽ mẫu măng-sét và logo cho Cửa Việt.

Cửa Việt đã trải qua một số phận khá truân chuyên để trả giá cho quyền được nói của mình, như chính thơ ông từng viết: “Tôi sống thời không thể đứng quay lưng/Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày dường đổi mới/ Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn”, “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi”... Kỷ niệm nào là đáng nhớ nhất với ông trong quãng thời gian làm báo ngắn ngủi nhưng khó quên đó?

Kỷ niệm khó quên đối với Cửa Việt thì nhiều, nhưng đáng nhớ nhất là những lần bị cấp trên “nhắc nhở”. Khi thì vì một bài thơ buồn sau chiến tranh, khi thì đăng bài của một nhân vật “có vấn đề”, khi thì đăng bài ngoài tỉnh nhiều... Nhưng kỷ niệm đau nhất là sự kiện đăng bài “Bàn tròn với Lê Ngọc Trà” (số 16). Sau khi báo ra, người ta quy là “hội thảo không phép”, và bị một tờ báo T.Ư đăng ngay bài phê phán với cái tít rất nặng nề “Quả đạn tù mù có nhiều khói độc trên tạp chí Cửa Việt”, khiến lãnh đạo tỉnh rất lo lắng. Cố nhạc sĩ Trần Hoàn lúc đó là Bộ trưởng Bộ VHTT nói với tôi: “Bay làm vừa vừa thôi!”. Ông Bí thư tỉnh nói với tòa soạn, tạp chí có thể bị đình chỉ. Còn ông bố vợ tôi, nguyên là cán bộ cao cấp, có Huân chương Độc lập và Huân chương Hồ Chí Minh thì tìm đọc kỹ lại Cửa Việt (vì ông người Quảng Trị) thì ngạc nhiên bảo: “Tôi đọc mãi có thấy “khói độc” gì đâu!”. 

Tuy vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Lập và tôi vẫn tiếp tục làm số 17 với một tinh thần tự tin, mạnh mẽ nhưng cẩn trọng hơn. Khi số 17 đã vào nhà in thì nghe nói đã có lệnh đình chỉ Cửa Việt, nhưng số 17 vẫn được phát hành. Đó là số cuối cùng của Cửa Việt - bộ đầu tiên. Sau đó nghe tin Thư viện hoàng gia Anh đã có trọn bộ Cửa Việt. Một nhà nghiên cứu lịch sử, mẹ vợ của đạo diễn điện ảnh Trần Anh Hùng từ nước ngoài về cũng nhờ tôi tìm mua cho bà đủ 17 số...

Không ít nhà báo lớn của đất nước là trưởng thành từ mảnh đất miền Trung. Ông có cho rằng điều đó có được là nhờ điểm gặp giữa tính cách vùng và phẩm chất tối cần ở một nhà báo: sự thẳng thắn, không khoan nhượng?

Chị nói đúng. Tôi cũng nghĩ tính cách và phẩm chất miền Trung rất hợp với tinh thần báo chí, nhưng người miền Trung cũng giàu lãng mạn và hài hước đấy chứ! Một Nguyễn Du, một Nguyễn Công Trứ hay một Hồ Xuân Hương cũng đủ làm cho bao người suy ngẫm về tính cách và phẩm chất miền Trung. Họ dám nhìn thẳng vào sự thật của đời sống, dám ca ngợi và phê phán với một tấm lòng đầy yêu thương, tình nghĩa. Thẳng thắn, không khoan nhượng đến độ gàn, nhưng lãng mạn, nghĩa tình thì cũng dễ mấy ai bằng...

 Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường & Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tại Thành Cổ Quảng Trị năm 1991

Nếu “chim không đậu”, thì phải xem lại “đất có lành” không?

Cửa Việt nói riêng và báo chí chính thống nói chung hiện nay có thể nói là đã qua mất rồi cái gọi là “thiên thời, địa lợi…” trước sự phát triển lấn át của mạng xã hội và báo mạng cùng truyền thông đa phương tiện. Ngoài nguyên nhân đó, ông nghĩ, còn những nguyên nhân nào khác khiến “đất lành” xưa hiện không còn thu hút được nhiều “chim đậu” nữa?

Báo mạng hay mạng xã hội phát triển mạnh vì người ta cần thông tin nhanh, thông tin xã hội và thông tin cá nhân, nhưng có thể nay còn, mai mất. Riêng tôi vẫn đánh giá cao vai trò của báo giấy, nếu báo giấy bảo đảm được chất lượng của nó, nghĩa là nói trúng, nói sâu, nói hay về đời sống xã hội, thân phận con người. Nếu nói đất lành mà chim không đậu, thì phải xem lại đất có lành không? Báo chí hiện nay về mặt bằng là đồng đều Bắc Trung Nam, nó phản ánh sự hiện diện khá phiến diện của nó. Có thể do một số nhà báo đã biến dạng hoặc do quản lý báo đặt mức an toàn quá cao. Hình như cả người viết lẫn nhà quản lý luôn lo lắng về những “sự cố” không an toàn cho chính họ. Đó là sự hạn chế động lực của báo giấy. Nhưng tôi vẫn tin, báo chí không thể né tránh sự thật, dù sự thật đau lòng.

Theo ông, đó có là một mất mát lớn của một miền đất có tiếng là đất học - đất chữ, đất thơ - đất nhạc như miền Trung? Điều gì theo ông có thể giúp có lại?

Như tôi đã nói, nếu có mất mát thì là mất mát chung chứ đâu chỉ riêng miền Trung. Tuy nhiên cái “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt” này không thể thu hút nhân tài bằng các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được. Điều đó nói rằng, miền Trung cần xốc lại mình, cần sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan đầu não với những hoạch định chiến lược tầm cỡ hơn để có những trung tâm thu hút nhân tài nhiều hơn nữa, mạnh hơn nữa. Có thế mới gọi là “đất lành” được!

Ông nghĩ sao khi kinh tế miền Trung thì phát triển hơn, nhà cửa thì khang trang hơn, con người cũng hiện đại hơn, hay mùa thi ĐH vừa qua đã chứng kiến một mùa bội thu của Nghệ An với 12 thủ khoa ĐH…, nhưng thơ văn miền Trung thì lại dần mất tiếng vang và chỗ đứng?

Nên nhớ thời Huế là kinh đô, thì những người tài cũng tập trung về đây. Hầu hết các nhà thơ lớn của thời kỳ Thơ Mới đều nổi lên từ Huế. Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Và nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước. Có thể nói, chỗ đứng của tinh thần miền Trung không chỉ ở miền Trung.

Từng có đề nghị giải thể các hội văn nghệ địa phương vì nhiều hội chỉ hoạt động cầm chừng không hiệu quả và cho thấy sự trì trệ của cơ chế bao cấp còn rơi rớt, ông thấy sao?

Tôi nghĩ các hội VHNT ở địa phương hay Trung ương nó đều giống một mái nhà, một sân chơi cho văn nghệ sĩ hội tụ, giao lưu mà thôi. Còn việc sáng tạo VHNT lại là một chuyện khác, chuyện của mỗi cá nhân. Ở các nước tiên tiến, người ta có nhiều chương trình bảo trợ văn hóa rất lớn như SIDA của Thụy Điển, TOYOTA của Nhật Bản hay FORD của Mỹ. Họ không chỉ bảo trợ các hoạt động trong nước mà còn bảo trợ quốc tế. Vấn đề là anh sử dụng các quỹ đó thế nào cho hiệu quả mà thôi.

Rất hiếm tờ báo hiện nay dành đất cho thơ văn, trong khi một thời hầu như báo lớn nào cũng có. Là người từng chứng kiến Cửa Việt ở những ngày đầu cũng như Phụ trương THƠ của báo Văn Nghệ thời văn chương còn có giá, ông có thể nói gì về những gì chúng ta đã để mất hoặc không còn biết quý? Thiếu đi hành trang tinh thần đó, người miền Trung nói riêng và người Việt mình nói chung sẽ đi về đâu, theo ông?

Theo tôi, vấn đề quan trọng để làm nên những giá trị tinh thần mạnh mẽ vẫn chính là con người. Con người là trọng yếu trong “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Một ông vua giỏi bao giờ cũng trọng dụng nhân tài. Và những người tài cũng có thể làm thay đổi một ông vua dốt. Nhưng vua và người tài kỵ nhau, thì sẽ không bao giờ có “nhân hòa” cả. Đó là sự tối kỵ…

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Thiên An - LĐ

 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.