Chiều trong vườn thư pháp chùa Huyền Không

16:21 13/08/2009
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

Khung cảnh trong khuôn viên chùa Huyền Không sơn thượng - Ảnh: Thoại Hà - evan

Đứng trước am Mây Tía nhìn xuống, trong tầm mắt 100 mét, là chiếc hồ do chùa đắp con đập nhỏ, ngăn dòng suối từ trên núi mà thành. Hồ không rộng, nép giữa vách núi hai bên, giống một tấm gương con của núi non hơn là một cái hồ, giống như một dụng ý của người làm ra nó. Bên phải hồ là nhà thư pháp. Đối diện với nhà thư pháp, bên trái hồ là một bãi thông nhỏ, một gò nổi gồ lên bên mép nước, vườn thông đang sức lớn này là vườn thư pháp. Thư pháp treo trên thân cây thông đang lớn.

Dọc đường từ am Mây Tía xuống nhà thư pháp là con đường quanh co bên sườn non, chốc chốc lại gặp bức thư pháp viết trên đá, hay treo dưới một mái tranh nho nhỏ, như hai trang sách mở ra, úp xuống giữ gìn những hàng thư pháp như rồng bay.
Không gian ấy và vườn thư pháp ấy dẫn du khách phút chốc lạc vào cõi thoát tục.
            “Con sông cuồn cuộn con sông chảy
            Cát bụi theo nhau cát bụi về
            Quay lại muốn tìm chân diện mục
            Chợt bóng mình hút giữa hoang khê”.

Nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh lang thang tìm nơi dừng chân. Ngay sau hoà bình 1975, một ngôi chùa lá được dựng ngay bên núi dưới chân đèo Hải Vân, bên ngoài chỉ có 3 chữ đơn sơ: Chùa Huyền Không. Ít lâu sau ngôi chùa ấy bị bỏ hoang. Nhà sư về Hương Hồ dựng chùa Huyền Không hạ. Khi chùa khang trang, du khách trong ngoài nước đã biết, tới đông, Sư Minh Đức giao chùa lại cho sư đệ Pháp Tông trông nom, ông tìm lên Đồng Chầm, vào một khe núi chỉ có đá và cây, ông chống gậy trúc ở đây, và lập nên chùa Huyền Không Sơn Thượng.
            “Xin trả chim đôi cánh
            Đôi cánh nhẹ bay xa
            Ta một mình lặng lẽ
            Một mình  ngắm mây qua”


Toàn cảnh trước chùa - Ảnh: khamphahue.com.vn


Cho đến bây giờ thì Huyền Không Sơn Thượng, dẫu còn đơn sơ, còn “hoang khê”, nhưng  đã là một địa chỉ văn hoá của Huế. Du khách ngồi với nhau, rung đùi ngâm nga:
            “Du khách đến Huyền Không quên cả lối về
            Quên cả  mình đang lạc giữa sơn khê
            Nhấp ánh trăng suông cùng mây gió
            Gặp chốn hư vô như gặp cõi đi về”.

Chiều nay, Festival dưới Huế đang nao nức đợi ngày Tế Nam Giao, bỗng tao nhân mặc khách ào lên Huyền Không Sơn Thượng. Tôi gặp cả Nguyễn Khắc Mai từ Hà Nội vào, Tiến sĩ Thanh Thanh, rồi Ngọc Lan từ Sài Gòn ra. Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh và sư Phước Thanh, trong bộ đồ vàng, nâu sồng nhà chùa, tay cầm quạt thong thả đi chào từng vị khách.

Trong vườn Thư pháp không có ghế ngồi chỉ có đá và chiếu hoa trải quanh vườn. Mỗi chiếu hoa là một nhóm bạn tâm tình, tôi gặp ở đây đủ cả những gương mặt thơ Huế thân quen: Văn Hữu Tứ, Phan Chi, Nguyệt Đình, Hà Khánh Linh, Đức Hiển, Lương Hà, Trần Kim Hồ, Ngô Minh, Linh Trai... Đôi mắt nào cũng vắng bóng sự cập rập đời thường, chỉ còn lại sự nồng ấm bạn bè:
Đúng là:
            “Biển sâu ngựa chạy bon bon     
            Thảnh thơi vô ngại đầu non thuyền chèo”

Tất cả thi sĩ Huế và tao nhân mặc khách ba miền hình như đều đắm mình trong cõi thiền:
            “Ôi ngạc nhiên bao lần
            Ngôn ngữ lạc miền hoang sơ
            Từ vô ngôn đến bây giờ
            Từ bây giờ đến bến bờ vô ngôn”

Mấy nữ sĩ đứng bên bức thư pháp gật gù tâm đắc với nhau:
            “Chữ chẳng là mây thăm phố chợ
            Dạo non xanh hương khói lơ thơ hòa khí bút”.

Giống như ở nơi non xanh này, trong không khí thoát tục này các nữ thi sĩ gặp lại chính mình: Sự thảnh thơi lang thang cùng nàng thơ.
            “Thơ lác đác dạo miền thơ cỏ ấy
            Gặp lại mình trên mỗi dấu vô vi”.

Đến giờ hẹn, du khách tập trung hết về ngôi nhà thư pháp bên bờ hồ. Hương trầm ngào ngạt khói xanh bay ra từ những lư trầm để trên bàn. Thì ra Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và chùa Huyền Không, nhân Festival Huế tổ chức một chiều “Nhàn đàm” thơ vọng cảnh chùa của các nhà thơ xưa”. Hèn chi có sự hội ngộ này.


Thư pháp ở chùa Huyền Không - Ảnh: khamphahue.com.vn


Trong hương trầm, một nhà sư tìm những bạn thơ của chùa, để tặng tập sách mang tên: “Tông thừa tụng” của 160 nhà sư đã làm thơ tả cảnh chùa. Tác giả các bài thơ trong tập sách này, toàn những người nổi tiếng: “Thiền sư Bồn Tịnh”, “Thiền sư Đạo Ngộ”, “Thiền sư Huệ Tịch Ngưỡng Sơn”...
Tôi giở một trang bất kỳ, gặp bài thơ của Thiền sư Huệ Phương:
            “Chẳng động mảy lông ngoài
            Lòng trong không hình bóng
            Suốt ba đời rong chơi
            Mười phương toàn giác mạn”.

Cứ đọc thơ cũng đủ thấy người đã ngộ ra cảnh đời và thoát tục, không còn lo nghĩ gì, đã trở về với miền giác ngộ.
Sau lời đề dẫn của Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, bắt đầu vào cuộc “nhàn đàm”. Ai thích gì nói nấy, chủ đề tập trung vào cảnh chùa. Người tìm một bài thơ mình thích rồi bình, người dãi bày cái tâm của mình đã lang thang rồi gặp tâm Phật, từ đấy, thấy cái triết lý của nhà chùa thật cao siêu. Cố gắng thoát năm căn, để tìm về nơi thảnh thơi.

Tôi tâm đắc với tâm trạng này:
            Có thì có tự mảy may
            Không thì cả thế giới này cũng không
            Vầng trăng vằng vặc bên song
            Có chi có có không không mơ màng”.

Ý thức thiền, ở một phương diện nào đó cũng chung chữ nhàn với đời. Chữ “Nhàn” của chữ Nho, triết tự ra gồm chữ Môn và chữ Nguyệt, ý nói thảnh thơi, nhìn trăng qua cửa sổ, đó là nội hàm của chữ Nhàn.
Giống như Nguyễn Khuyến ngày nào đi thăm chùa, sự gặp gỡ này, ông đã trải lòng, bằng một câu thơ đằm thắm:
            Chùa xưa ở lẫn cùng cây đó
            Sư phụ nằm chung với khói mây”

Giáo lý của nhà chùa được người đời tán thưởng, đi theo, vì đã đi đúng với lòng người:
            “Cú pháp do tâm dẫn đầu
            Tâm chủ, tâm tạo bắc cầu đưa duyên
            Nói làm với tâm tốt hiền
            Như hình với bóng vui liền theo sau”.

Phật dễ hiểu khi 80 phần trăm dân Việt Nam đã theo đạo Phật. Sự hiến dâng xương máu cho cách mạng phật tử chiếm hàng đầu. Đạo Phật là nơi trú ngụ tin cậy của người Việt vậy. Ai cũng muốn tìm đến cõi Niết Bàn, điều đó không xa, thật gần bởi “Tâm người là tâm Phật”. Phật không xa xôi, mà ở tại lòng mình.
Càng về chiều, chùa Huyền Không Sơn Thượng càng đông khách. Các chiếu trải trong vườn thư pháp không hở một chỗ ngồi nào.

Có người hỏi: Tại sao Huyền Không Sơn Thượng heo hút thế mà lại thu hút được khách đông thế? Tôi lấy một câu thơ trong vườn thư pháp để trả lời:
            “Chợt phong vân ghé mái chùa
            Cỏ hoa ý đạo duyên xưa tầm lòng”

Trời đêm xuống từ từ. Khi đôi cánh đêm đen đã phủ lên rừng núi, chợt 500 ngọn đèn và 1000 ngọn nến chùa Huyền Không Sơn Thượng bừng sáng. Giống như ngày nối sang ngày, ở đây không còn đêm nữa. Rất giống lời trong trang thư pháp treo:
            “Chừ đi bảy dặm một hàng
            Lời như cát bụi lang thang đất này”.

Đến lúc phải chia tay, những bàn tay nắm lấy bàn tay, hò hẹn: “Chúng mình sẽ trở về với Huyền Không Sơn Thượng nhé”.
Chiều Huyền Không, một chiều rất thương, rất nhớ. Giống như câu thơ của Minh Đức Triều Tâm Ảnh: “Ta cúi nhặt dấu chân trên cỏ” vậy.

N.Q.H
(185/07-04)

------------------------
* Những câu thơ trong bài lấy trong vườn thư pháp Huyền Không Sơn Thượng.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.

  • Tế lễ, giỗ chạp, cúng kỵ gắn với người Huế rất sâu. Hình như nhạc lễ cổ truyền xứ Huế cũng hình thành từ đó. Món ăn Huế được chăm chút, gọt tỉa để trở thành một thứ nghệ thuật ẩm thực cũng từ đó. Màu sắc, mẫu mã của nhiều loại trang phục Huế cũng từ đó mà được hoàn chỉnh, nâng cao. Cả những phong cách sinh hoạt nói năng, thưa gởi, đứng ngồi, mời trà, rót rượu... đầy ý tứ của vùng đất nầy cũng đi từ những buổi cúng giỗ đượm mùi hương trầm.