Chiều Tam Giang

14:23 04/05/2009
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

Từ Huế, cô bạn thân Hà My chở tôi về chợ Sịa. Nơi đây tôi loanh quanh một hồi như nhớ về một thời vang bóng của vùng đất “nhất Huế, nhì Sịa”. Vùng đất này cũng có nhiều đổi thay, đã mang dáng dấp một chút thị thành nào đó. Tôi nhớ chợ này có tiệm ảnh Nhất Phẩm, hồi ấy có chưng ảnh của mình thời đi học mặc áo dài đội nón bài thơ. Bây giờ về lại đây tôi chỉ muốn tìm tiệm ảnh đó, xin lại tấm hình... Nhưng tôi đã không tìm ra tiệm ảnh ấy nữa, mà cũng chẳng ai lưu một tấm hình đã gần nửa thế kỷ. Tôi viễn vông quá đi mất.

Hà My đưa tôi đến bến đò rồi từ giã tôi về lại Huế. Đò từ bên kia chưa sang nên tôi phải chờ. Ở bến đò này, người ta đã xây dựng đê kè khá đẹp, đặc biệt hàng quán cũng đã mọc lên khá nhiều để phục vụ khách chờ đò. Điều khá thú vị là khách đến đây để thưởng thức các món ăn đặc sản đầm phá khá đông, có lẽ họ là người chung quanh thị trấn. Hóa ra khu vực bến đò này đã trở thành dãy hàng ăn khá đặc sắc. Vì vậy trên cầu bến bày bán khá nhiều cá hanh, cá dìa hay cua, ghẹ... Tôi ngồi lẫn với những người chờ đò khác. Chiếc áo bà ba màu tím và chiếc túi nhỏ trên tay, tôi vẫn như ngày xưa, mười hay mấy mươi năm trước đã chờ đò qua bến này. Tiếc rằng màu thời gian đã kịp ghi dấu trên tôi, để nơi đây tôi như vừa lạ lại vừa quen. Không! Tôi là người quen đấy thôi. Khi cô bé bán hàng có hai má lúm đồng tiền tròn xoe kia chưa ra đời, tôi đã từng qua lại bến đò này. Tôi đang trở về sau một chuyến đi xa. Tôi không phiêu du vì biết mình đi đâu, về đâu và tôi đang trở về.

Chiều nay tôi qua phá để về vùng chợ Biện. Ngôi chợ nhỏ nằm bên bờ phá bên kia. Nghĩa là bến đò và con đò này chỉ chở người sang ngang. Ngày xưa đi đò dọc cũng chờ ở bến đò này nhưng bây giờ đò dọc chỉ ghé để trả khách. Khách đi đò chủ yếu là lên Huế, qua Cầu Hai hay từ Huế về Vĩnh Tu, chợ Biện. Nếu câu ca dao cho rằng “Phá Tam Giang ngày nay đã cạn” e rằng không đúng lắm. Vùng Tam Giang phía Bắc này có đập cửa Lai như một chiếc cầu băng qua Phá nhưng mùa mưa việc đi lại xem như ngừng hoàn toàn. Không hiểu với Phá Tam Giang mênh mông này có bao nhiêu con đập hay chiếc cầu bắc qua? Người dân Huế có Phá Tam Giang như bước đệm giữa đồng bằng và biển cả, mà sự thông thương giữa Phá với các đầm Thủy Tú, đầm Chuồn, đầm Cầu Hai đã tạo nên vùng đầm phá độc nhất vô nhị ở Đông Nam Á. Tam Giang đâu chỉ đơn thuần là cái tên để gọi, nghĩa rất rõ ràng của Phá này là nơi hợp nhất của ba dòng sông đẹp: sông Ô Lâu, sông Hương, sông Bồ trước khi đổ ra biển cả.


Chiều, sóng Tam Giang gợn nhẹ. Mặt trời như lấp lóa thêm những quầng sáng vàng bạc trên từng đợt sóng kia. Rồi tôi cũng thấy mặt trời như cái mâm đỏ rực sau những cồn cát xa xa, con đò lướt sóng rất êm, có phải đò đầy nên bớt đi sự chao đảo của sóng? Tôi chợt nhận ra trên chiếc đò này sự im lặng khá tuyệt đối, tất cả đều nhìn bâng quơ ra phá. Hẳn không phải có người lần đầu qua Phá hay từ một nơi trở về nào đó để cảm nhận sự thân quen. Cũng không phải vì nhánh rong kia dập dờn hay con cá nhỏ lao mình lên đớp sóng. Họ cũng như tôi đều chung một nôn nao là được lên bờ, đặt chân đến vùng đất mình đang tìm đến. Lâu lắm rồi, tôi mới thực hiện được lời hứa về Thế Chí. Tôi không quên, không lần lữa nhưng cứ lỡ hẹn nhiều lần. Bởi tôi sợ tôi về rồi tôi sẽ đi. Sợ làm người lạ trong ngôi nhà mình đã quá thân quen. Ngôi nhà mà mấy chục năm sống ở phương xa, tôi cứ thấy như tay mình mát lạnh khi tay lên hàng gỗ  bóng nhẫy. Tôi đã không hối hận khi từ chối lời đề nghị của Hà My “Hà My chở Ngọc Lan theo quốc lộ 44, đọc theo dòng Ô Lâu về chợ Biện. Mau lắm!”.

Bởi tôi muốn tìm lại cảm giác sang ngang, muốn trở lại thành người năm cũ, muốn thời gian không hề ghi dấu sự chia ly. Gió trên Phá lồng lộng. Hình như mắt tôi thấy cay cay thì phải. Không phải những sợi tóc tình cờ quất vào mặt mà là khói mỏng manh, cay sè từ bếp cơm chiều của một chiếc đò trên Phá. Ô hay, thằng bé trên đò kia hồn nhiên quá đỗi! Sợi dây diều trên tay nó như căng ra, tưởng như chút xíu thôi sợi dây sẽ nhấc bổng nó lên để bay theo cánh diều. Bầu trời và con diều đều in xuống mặt nước trong vắt. Chỉ đến khi chiếc đò tôi đang đi rẽ sóng đi tới, tất cả đều biến mất. Sóng vỗ lăn tăn dưới mạn thuyền. Thằng bé vẫn hớn hở thả căng thêm sợi dây. Cánh diều làm vùng Tam Giang như xanh hơn, cao hơn. Một cảm giác như nhẹ nhàng vừa choáng ngợp trong tâm trí tôi. Cuộc sống thật bình yên. Giấc mơ của trẻ con thì bao giờ cũng đẹp. Tôi ước chi mình cũng tiếp nối được những giấc mơ của thời thơ ấu.

Mười phút trên con đò sang ngang. Tóc tôi như ẩm hơn vì hơi nước bốc lên mát rượi. Bên kia bến đò, nơi tôi vừa rời bến, đã lố nhố người chờ con đò cập bến quay mũi trở về. Bến bên này phá hay bên kia Phá, bên nào là nơi để chiếc đò trở về neo đậu? Còn tôi, tôi đang thật sự trở về.

V.N.L
(242/04-09)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.