Ảnh: Internet
ĐẶNG VĂN ĐÔNG Chiếc áo len nhiều màu Mùa đông năm ấy, trời rét đậm. Bầu trời đầy nặng những áng mây chì. Mưa tuy nhẹ hạt, nhưng gió thì thào xào xạc lay động những bụi tre già trong vườn. Về đêm, tiếng ễnh ương, côn trùng rề rà vọng đến từ ao hồ lối xóm. Đường vắng. Tiếng chó sủa vu vơ... Trong gia đình tôi, đêm đông, ba - mợ tôi đi ngủ sớm. Tôi và chị tôi đều thức. Dưới ánh sáng vàng cây đèn tọa, tôi say mê đọc sách thiếu nhi “Hoa Hồng”. Truyện mà tôi mê nhất thời thơ ấu là “Ông Đồ Bể” của nhà văn Khái Hưng. Trong khi tôi đọc sách thì chị tôi thường đan len. Đêm ấy, chị tôi vào phòng riêng, khi đi ra có mang theo một cái giỏ mây mà bên trong nhiều cuộn len màu, có cuộn to bằng trái cam lớn, có cuộn nhỏ bằng trái ổi, trái chanh. Mớ cuộn len to nhỏ, xinh xinh có nhiều màu: vàng, tím nhạt, đỏ, hồng, xanh da trời... Đây là số len còn lại khi chị tôi đan xong áo ấm cho khách hàng. Chị để dành, khi thì đan chiếc quai nón, khi thì đan khăn quàng cổ để tặng bè bạn hay người thân trong xóm nhỏ Đức Môn (xóm Cửa). Chị đến cạnh tôi, nhìn xem tôi đang đọc sách gì? Tôi cười khoe với chị: - Em đang đọc “sách Hồng”, chuyện hay lắm chị ơi! Đọc xong em sẽ kể lại cho chị nghe. Chị vui vẻ đồng tình: - Em cứ đọc đi. Còn đêm nay chị sẽ đan cho xong chiếc áo len nhiều màu của em. Em đọc sách nhớ đừng thức khuya lắm. Tôi thực sự ngạc nhiên về việc đan áo len này, rụt rè hỏi: - Em thấy chị đang bận đan áo len cho khách hàng, tại sao đêm nay chị lại có thì giờ đan áo cho em? Chị tôi bỗng đôi mắt như mờ lệ. Chị ngập ngừng một lúc, rồi nhỏ nhẹ: - Nói với em nhưng em chớ buồn. Hôm qua ba đã la chị, có lẽ ba giận chị lắm. Ba nói chị không quan tâm gì đến em, để em mùa đông lạnh lẽo mà không có lấy một manh áo ấm. Ba còn nhắc nhở chị: “Mẹ mất sớm, chị phải thay mẹ chăm sóc em chu đáo, vậy mới phải đạo là con gái lớn đảm đang việc nhà”. Tôi chợt hiểu, tự nhiên cảm thấy mình cô đơn, côi cút, mủi lòng. Tôi chăm chú nhìn vẻ mặt rất buồn của chị, nét mặt có chút gì như lòng ân hận. Trong tâm hồn bé thơ của tôi dấy lên một niềm thương cảm vô hạn đối với chị... Tôi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng rõ. Còn chị vẫn lặng lẽ với que đan bằng tre, mũi lên mũi xuống, cần mẫn thức trắng đêm. Sáng hôm sau, khi tôi đang rửa mặt và đánh răng ở bể nước sau nhà, chị đến bên, cười âu yếm khoe: - Chị đan xong áo len cho em rồi. Chút nữa em mặc thử, xem có vừa và đẹp không? Đấy là chiếc áo len đầu tiên trong đời tôi. Cổ trái tim, hở nách và không có “bo”, màu tím nhạt. Chị rất hài lòng với sản phẩm khiêm tốn của mình, vuốt tóc tôi, vui vẻ: - Khi nào kiếm thêm đủ len thừa chị sẽ nối tay áo cho em, chắp thêm cổ, vậy là em sẽ có một chiếc “săng-đay” thật ấm và đẹp. Sở dĩ chị tôi đan nhanh và đẹp vì thời ấy chị tôi là một nữ sinh giỏi của trường Nữ Công Học Hội do nữ sĩ Đạm Phương làm hiệu trưởng. Trường dạy cho các nữ sinh miền Trung về nữ công gia chánh như thêu, đan, làm bánh ướt, kết hoa giấy và có cả việc kéo sợi bông đi dệt vải... Thời gian trôi đi. Thời thơ ấu qua đi. Và oái ăm thay... Vào năm 47, giặc Pháp đổ bộ lên Đồng Hới, sau mặt trận lan ra đến huyện Bố Trạch. Chị tôi tham gia kháng chiến ở Huyện hội Phụ nữ Bố Trạch. Chính vào giai đoạn này, chị tôi mang thai cháu đầu lòng. Khi sinh nở, bị sốt cao. Đang thời buổi chiến tranh, thiếu thuốc men và phương tiện y tế khoa sản. Cả hai mẹ con chị đều qua đời! Lời hứa thân thương đối với đứa em trai nhỏ dại, chị tôi đã vĩnh viễn không bao giờ thực hiện được nữa. Đ.V.Đ (263/01-11) |
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.