Chiếc áo len nhiều màu

10:05 26/01/2011
LTS: Ông Đặng Văn Đông - một cao niên gần 90 tuổi ở Huế, là người gửi nhiều bài dịch cho Sông Hương song chưa hợp với tiêu chí “nhìn ra văn học thế giới đương đại”. Vừa qua chúng tôi nhận được thư của ông cùng bài viết về một kỷ niệm đầy nhân ái trong gia đình.Sông Hương xin đăng, và kính chúc ông năm mới dồi dào sức khỏe!

Ảnh: Internet


ĐẶNG VĂN ĐÔNG



Chiếc áo len nhiều màu



Mùa đông năm ấy, trời rét đậm. Bầu trời đầy nặng những áng mây chì. Mưa tuy nhẹ hạt, nhưng gió thì thào xào xạc lay động những bụi tre già trong vườn. Về đêm, tiếng ễnh ương, côn trùng rề rà vọng đến từ ao hồ lối xóm. Đường vắng. Tiếng chó sủa vu vơ... Trong gia đình tôi, đêm đông, ba - mợ tôi đi ngủ sớm. Tôi và chị tôi đều thức.

Dưới ánh sáng vàng cây đèn tọa, tôi say mê đọc sách thiếu nhi “Hoa Hồng”. Truyện mà tôi mê nhất thời thơ ấu là “Ông Đồ Bể” của nhà văn Khái Hưng. Trong khi tôi đọc sách thì chị tôi thường đan len. Đêm ấy, chị tôi vào phòng riêng, khi đi ra có mang theo một cái giỏ mây mà bên trong nhiều cuộn len màu, có cuộn to bằng trái cam lớn, có cuộn nhỏ bằng trái ổi, trái chanh. Mớ cuộn len to nhỏ, xinh xinh có nhiều màu: vàng, tím nhạt, đỏ, hồng, xanh da trời... Đây là số len còn lại khi chị tôi đan xong áo ấm cho khách hàng. Chị để dành, khi thì đan chiếc quai nón, khi thì đan khăn quàng cổ để tặng bè bạn hay người thân trong xóm nhỏ Đức Môn (xóm Cửa).

Chị đến cạnh tôi, nhìn xem tôi đang đọc sách gì?

Tôi cười khoe với chị:

- Em đang đọc “sách Hồng”, chuyện hay lắm chị ơi! Đọc xong em sẽ kể lại cho chị nghe.

Chị vui vẻ đồng tình:

- Em cứ đọc đi. Còn đêm nay chị sẽ đan cho xong chiếc áo len nhiều màu của em. Em đọc sách nhớ đừng thức khuya lắm.

Tôi thực sự ngạc nhiên về việc đan áo len này, rụt rè hỏi:

- Em thấy chị đang bận đan áo len cho khách hàng, tại sao đêm nay chị lại có thì giờ đan áo cho em?

Chị tôi bỗng đôi mắt như mờ lệ. Chị ngập ngừng một lúc, rồi nhỏ nhẹ:

- Nói với em nhưng em chớ buồn. Hôm qua ba đã la chị, có lẽ ba giận chị lắm. Ba nói chị không quan tâm gì đến em, để em mùa đông lạnh lẽo mà không có lấy một manh áo ấm. Ba còn nhắc nhở chị: “Mẹ mất sớm, chị phải thay mẹ chăm sóc em chu đáo, vậy mới phải đạo là con gái lớn đảm đang việc nhà”.

Tôi chợt hiểu, tự nhiên cảm thấy mình cô đơn, côi cút, mủi lòng. Tôi chăm chú nhìn vẻ mặt rất buồn của chị, nét mặt có chút gì như lòng ân hận. Trong tâm hồn bé thơ của tôi dấy lên một niềm thương cảm vô hạn đối với chị...

Tôi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng rõ. Còn chị vẫn lặng lẽ với que đan bằng tre, mũi lên mũi xuống, cần mẫn thức trắng đêm.

Sáng hôm sau, khi tôi đang rửa mặt và đánh răng ở bể nước sau nhà, chị đến bên, cười âu yếm khoe:

- Chị đan xong áo len cho em rồi. Chút nữa em mặc thử, xem có vừa và đẹp không?

Đấy là chiếc áo len đầu tiên trong đời tôi. Cổ trái tim, hở nách và không có “bo”, màu tím nhạt. Chị rất hài lòng với sản phẩm khiêm tốn của mình, vuốt tóc tôi, vui vẻ:

- Khi nào kiếm thêm đủ len thừa chị sẽ nối tay áo cho em, chắp thêm cổ, vậy là em sẽ có một chiếc “săng-đay” thật ấm và đẹp.

Sở dĩ chị tôi đan nhanh và đẹp vì thời ấy chị tôi là một nữ sinh giỏi của trường Nữ Công Học Hội do nữ sĩ Đạm Phương làm hiệu trưởng. Trường dạy cho các nữ sinh miền Trung về nữ công gia chánh như thêu, đan, làm bánh ướt, kết hoa giấy và có cả việc kéo sợi bông đi dệt vải...

Thời gian trôi đi. Thời thơ ấu qua đi. Và oái ăm thay...

Vào năm 47, giặc Pháp đổ bộ lên Đồng Hới, sau mặt trận lan ra đến huyện Bố Trạch. Chị tôi tham gia kháng chiến ở Huyện hội Phụ nữ Bố Trạch. Chính vào giai đoạn này, chị tôi mang thai cháu đầu lòng. Khi sinh nở, bị sốt cao. Đang thời buổi chiến tranh, thiếu thuốc men và phương tiện y tế khoa sản. Cả hai mẹ con chị đều qua đời!

Lời hứa thân thương đối với đứa em trai nhỏ dại, chị tôi đã vĩnh viễn không bao giờ thực hiện được nữa.

Đ.V.Đ
(263/01-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).