NGÔ MINH
Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.
Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com
Hai chữ HẢI KỲ cứ láy đi láy lại như điệp khúc, như tiếng vọng giữa cuộc đời. Hải Kỳ là nhà thơ có tên tuổi trong làng thơ Việt Nam, được công chúng yêu thơ cả nước mến mộ. Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1994, là nhà thơ có nhiều duyên nợ với Huế cả về đời tư và trong thơ. Bố Hải Kỳ là ông Trần Toàn, làm nghề lái xe đò tuyến Huế - Đồng Hới. Lấy vợ và sinh ra Hải Kỳ ở Huế năm 1949. Đến 5 tuổi ông đưa mẹ con Hải Kỳ ra thăm quê nội, một thời gian giới tuyến Hiền Lương bị đóng, thế là ông xa mẹ con Hải Kỳ từ đó. Chờ hai năm Nam Bắc không sum họp như quy định trong Hiệp định Genève, mấy năm sau ông lấy vợ khác ở Sịa, huyện Quảng Điền.
Hải Kỳ lớn lên học ở Đồng Hới. Do chiến tranh, mẹ cho sơ tán lên quê nội Lệ Thủy, học cấp 3 Lệ Thủy 1965-1968 cùng lớp với Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Nguyễn Minh Hoàng... Được hai thầy giáo dạy văn giỏi là Lương Duy Cán (nhà thơ Hà Nhật) và Phan Ngọc Thu trực tiếp giảng dạy. Năm 1968, tốt nghiệp cấp 3 ở nơi sơ tán Ngư Hóa, Tuyên Hóa, miền Tây Quảng Bình. Do lý lịch “bố đi Nam”, không được thi đại học, Hải Kỳ phải theo khóa học sư phạm cấp tốc hai tháng. Học xong hai tháng sư phạm vùng rừng núi Troóc, miền tây Bố Trạch thì mẹ bị máy bay Mỹ bắn rócket chết ở Cầu Rào, Đồng Hới. Thế là Hải Kỳ mất mẹ, cha thì ở miền Nam, không có tin tức gì. Từ đó, Hải Kỳ dạy học, nuôi em trai Trần Văn Hà. Năm 1980, 31 tuổi, Hải Kỳ mới thi vào khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Bốn năm làm sinh viên ở Huế là bốn năm Hải Kỳ bùng nổ về thơ. Hàng chục bài thơ hay, đầy ám ảnh của Hải Kỳ là viết ở Huế trong thời kỳ này. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, anh lại trở về dạy ở trường cấp 2 Đức Ninh, Đồng Hới cho đến khi xin nghỉ hưu sớm 5 năm vì chán cảnh dạy thêm học thêm, chán cảnh chạy theo thành tích trong giáo dục...
Trong sổ tay của rất nhiều bạn trẻ Huế, Quảng Bình, Đà Nẵng và cả nước còn lưu những bài thơ tình hay của Hải Kỳ. Anh làm thơ từ thời học sinh phổ thông trung học. Năm 1970, Hải Kỳ được trao giải thưởng cuộc thi thơ ở Quảng Bình với bài thơ “Tiếng bom”. Hải Kỳ đã xuất bản 5 tập thơ: Ngọn gió đi tìm (1987 - tái bản 2001); Đồng vọng (1989); Nằm đếm trời sao (1997); Đối thoại lục bát (1999); Giấc mơ (2009). Ngoài ra, trong nhiều tuyển tập thơ lớn của Việt Nam thế kỷ XX và các địa phương như miền Trung, Huế, Quảng Bình... đều có sự góp mặt của thơ Hải Kỳ. Anh có nhiều bài thơ hay, ám ảnh như bài thơ Mẹ tôi, Tôi ra Cửa biển, Tôi và em với Thiên An, Người phu mộ, Tôi nhìn cho đến... Hải Kỳ là nhà thơ có bài thơ lục bát hay được chọn vào Tuyển lục bát Việt Nam hai thế kỷ, có nhiều câu thơ tuyệt hay được chọn trong tuyển “Những câu thơ tài hoa Việt Nam”... Đặc biệt trong các tuyển tập thơ quan trọng như Thơ Việt Nam thế kỷ XX (Nxb. Giáo Dục), Tuyển tập thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nhà văn Việt Nam Hiện đại Quảng Bình, Thơ miền Trung thế kỷ XX, Hai thập kỷ thơ Huế, 700 năm thơ Huế, Thơ 20 năm Sông Hương đều tuyển chọn những chùm thơ hay của Hải Kỳ. Phim chân dung Hải Kỳ - thơ và biển do VTV Huế sản xuất năm 2010 đã phát nhiều lần trên sóng VTV1, VTV3, VTV Huế phần hình ảnh trong phim là khung cảnh Đồng Hới và Huế như sông Nhật Lệ, cửa biển Hải Thành, nhà thờ Tam Tòa, đồi thông Thiên An, lò rượu chị Hiếu ở Phú Cam, trường Hai Bà Trưng, Sông Hương v.v.. nơi phát tích của những bài thơ Hải Kỳ.
Hải Kỳ tuyển tập được chia làm 3 phần: Phần 1 là Thơ tuyển với 268 bài thơ trong toàn bộ sáng tác thơ của Hải Kỳ trong hơn 40 năm cầm bút, được chọn lọc, đáp ứng nhu cầu yêu thích thơ Hải Kỳ của công chúng. Thơ Hải Kỳ sâu đậm với hai vùng quê gắn bó với đời anh là Đồng Hới và Huế. Trong tuyển có hàng trăm bài thơ viết ở Đồng Hới như Mẹ tôi, Tôi ra cửa biển... Lại có gần trăm bài thơ viết về Huế như Tôi và em với Thiên An, Chơi chùa Bảo Quốc, Bỗng nhiên ngọn lửa, Nhớ Huế, Người phu mộ, Diệp liễu vàng, Nói với Huế v.v.. Nhiều người yêu thơ vẫn thuộc những câu thơ da diết của Hải Kỳ:
Chao ôi cây nối liền cây
Người sao chẳng biết cầm tay với người
Giữa rừng em với mình tôi
Lặng im giấu một khoảng trời Thiên An.
(Tôi và em với Thiên An)
Hay:
Đêm này, đêm Chúa giáng sinh
Tình yêu tôi cũng tượng hình đêm nay
Chúa Trời giang rộng cánh tay
Trên cây Thánh giá lưu đày khổ đau
Tình yêu tôi cũng nhiệm màu
Đóng đinh tôi ngàn thuở đầu trang thơ
(Dạ khúc Nô en)
Một lần chơi chùa Bảo Quốc, trò chuyện với con chim nhồng được nuôi trong lồng ở gần chùa, Hải Kỳ đã để lại cho Huế những vần thơ sâu sắc: Tiếng con chim Phật nghe rồi/ Cứ nghi hoặc đấy là lời hư vô/ Như là từ xửa từ xưa/ Khổ đau luyện mãi mà chưa thoát trần...
Phần 2 là Bài viết, Nhật ký, Thư từ, giúp bạn đọc hiểu thêm cuộc đời nhà thơ, những ghi chép, suy nghĩ xúc động và thú vị về văn chương, thế sự trong cuộc sống thường nhật. Đây là đoạn nhật ký Hải Kỳ ghi về bữa cơm của bố con nhà thơ - nhà giáo chuyên văn Mai Văn Hoan ở khu tập thể trường Hai Bà Trưng thời bao cấp, ngày 18-10-1980: “Nhưng Hoan vẫn đi vay gạo. Không vay được, Hoan mua về 2 ổ mì. Nào ăn đi! Cả cơm nữa nhé! Hoan tuyên bố như trước bữa tiệc. Cơm ư? Chao ôi, bạn cũng như tôi. Bữa cơm chỉ được lưng bát trộn sắn khô. Thức ăn là dăm con tôm như lá cỏ và một bát canh khế trong như nước suối. Ôi! Nói cái điều ăn uống ra đôi khi cũng chẳng hay ho gì. Nhưng bữa ăn của người mà dở đến thế thì giữ cái hay làm chi...”. Hay trong thư gửi Ngô Minh ngày 5-11-1985 sau bão số 8, Hải Kỳ nhắc lại những kỷ niệm về bạn bè rất cảm động: “...Ở đây, cơn bão có gây lụt lớn vùng Phú Vinh, Cộn, Mĩ Cương… làm trôi nhà cửa đường sá. Duy nhà thơ, à quên, thi sĩ ở đỉnh đồi và nhà tập thể nên cũng bị xoàng thôi. Thế mà lại được tiền nong, cơm gạo quyên góp của các nhà thơ “Pê tec bua” cứu trợ thì thật phúc đức hơn dân chúng nhiều lắm. Các anh Tô Nhuận Vỹ, Sĩ Sô ra sau bão. Uống rượu đến 1 giờ sáng, đi bộ từ nhà Thúc Hà về 5 “cây-lô-mếch”, với một cái chai không cầm làm nhịp và “vũ khí tùy thân”… Sau đó một tuần thì Mây, Thạch và anh Quang Hà lại xuất hiện để an ủi lần nữa.
Ban Giáo dục Đồng Hới đang “thuê” Hải Kỳ nói chuyện thơ cho 16 trường thị xã, chia làm 3 cụm để thi sĩ đi về 3 nơi. Hải Kỳ sẽ nói về thơ thật, cảm hứng thật, cuộc đời thật của Mai a, B lôc, Ê xê nhin, Ép tu sen cô, Ra xun và bạn bè. Sẽ chửi rủa ra trò bọn thơ giả, bọn cơ hội trong đời này”.
Phần 3 là Hải Kỳ trong lòng bè bạn gồm những bài viết về thơ Hải Kỳ và thơ tặng Hải Kỳ của rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và bạn yêu thơ trong cả nước, trong đó có những người nổi tiếng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang Lập, Lê Xuân Đố... Trong bài “Cõi thơ Hải Kỳ”, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết:
Thế mà cũng ngóng, thế mà lại trông
Rứa là Huế đó, răng không
Đa tình với núi với sông với người
Đa tình đến ý nhị vậy cũng thật đáng đa tình. Đây là nói cái ý nhị của hồn thơ, của cái cõi thơ. Nhưng để chở cái hồn cái cõi ấy, phải nói đến chữ của thơ. Cũng “răng” cũng “rứa” mà sao trong thơ Hải Kỳ nó như có ma lực vậy? Chính từ ngữ dùng đắc địa, nó đã tạo cho thơ anh trở nên lung linh sống động mà có sức hướng nội. Nó không chỉ dính vào ta mà còn làm ta “phải lòng” nữa...”.
Những bài viết và thơ tặng chính là sự cuốn hút, lay động của thơ và nhân cách sống của Hải Kỳ đối với tác giả. Đọc phần này, độc giả sẽ thấy được sức sống của nhân cách thơ nhà thơ Hải Kỳ trong lòng bè bạn.
Để có Hải Kỳ tuyển tập xúc động và chất chứa, từ sau Tết Nhâm Thìn, tôi đã có thông báo rộng rãi trên các trang web, blog “kêu gọi mọi người có các bài thơ, bài viết, thư từ hay tài liệu liên quan đến nhà thơ Hải Kỳ thì gửi về cho Ngô Minh hoặc Mai Văn Hoan...”. Nhờ thông báo đó mà chúng tôi đã nhận được một số bài thơ, bài viết, thư từ quan trọng. Thì ra thơ, thư Hải Kỳ có trong va-ly của nhiều người lắm, nhất là các người đẹp. Mặt khác, nhà báo Trần Minh Văn, con trai út của nhà thơ đã thức mấy chục đêm liền để đánh máy hết toàn bộ 5 tập thơ đã xuất bản của bố. Mai Văn Hoan thì cắm cúi từng đêm đọc lại những trang nhật ký, những lá thư đã vàng ố thời gian để chọn những đoạn nhật ký, lá thư ưng ý nhất vào Tuyển tập. Tất cả công việc đó được tiến hành khẩn trương, song song với việc gửi thư đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam đầu tư kinh phí để in ấn tuyển tập. Bây giờ giá giấy lên cao, in một cuốn sách dày 600 trang giá thành lên đến 75 nghìn đồng/cuốn. Gia đình vợ con Hải Kỳ lại nghèo. Vợ không có lương hưu. Lâu nay hai vợ chồng chỉ sống bằng đồng lương hưu của Hải Kỳ. Thấy hoàn cảnh eo hẹp, anh Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam duyệt cho 20 triệu đồng. Hôm hội thảo “Văn học nghệ thuật trong dòng chảy văn hóa Huế” ở Huế, anh Hữu Thỉnh đã khoác vai tôi bảo: “Thông cảm. Thông cảm cho mình. Mình thương Hải Kỳ lắm. Nhưng hai mươi triệu là tối đa. Là diện đặc biệt rồi. Không thể hơn. Không thể hơn”. Tôi ôm nhà thơ Hữu Thỉnh rất chặt, giống như ảnh Hải Kỳ đã ôm Hữu Thỉnh ngày nào, mà chúng tôi đã chọn in trong tuyển. Nhà thơ Lê Đình Ty ở Đồng Hới thì chăm chút từng con chữ, từng trang tuyển tập. Đọc mo-rát bản thảo, phát hiện thấy mấy câu thơ không đúng theo trí nhớ của mình, anh cũng cẩn thận lục tìm bản gốc là các tập thơ Hải Kỳ để tra cứu, chỉnh sửa.
Tuyển tập Hải Kỳ in xong trước ngày giỗ đầu của nhà thơ là một cố gắng đáng trân trọng của anh em biên tập, của Hội Nhà văn Việt Nam, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình và gia đình. Với tất cả tình yêu mến và lòng kính trọng nhân cách và sự nghiệp thơ Hải Kỳ, xin trân trọng gửi đến bạn đọc Huế cuốn Hải Kỳ tuyển tập dày dặn, đầy đủ này.
Huế, tháng 6 năm 2012
N.M
(SH281/7-12)
.......................................
Hải Kỳ tuyển tập, NXB Thuận Hóa, 2012.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).