NGUYÊN HƯƠNG
Có những ngày tháng đi qua đã để lại nỗi trống vắng hoang tàn cho con người và tạo vật. Và đôi khi ta thấy tiếc nhớ những ngày tháng ấy như tiếc một món vật cổ điển đã mất đi, dẫu biết rằng theo nhịp tuần hoàn mỗi năm, ngày tháng ấy còn quay trở lại.
Ảnh: internet
Như một kẻ tiếc thương quá khứ, ý nghĩ cá nhân luôn đẩy tôi đến một nỗi buồn mông lung khi giờ khắc cuối cùng của tháng Chạp vừa kết thúc. Chạp, trong suy nghĩ của tôi, là tháng đẹp nhất trong năm. Về đường đi của thời gian, đó là tháng cuối cùng của năm, báo hiệu Tết cổ truyền đang đến rất gần và cũng lùi xa... rất vội. Về dáng điệu, tháng Chạp không hiển lộ sự đẫy đà xuân sắc mà khẳng khiu một vẻ mặt buồn bã lo lâu, thâm sâu và riêng chịu. Cây lá úa tàn nhưng không ủy mị, và nhất là khi chìm trong nắng hanh gió bấc, rét tháng Chạp thường gợi cho ta một nỗi rung động về nhan sắc của mùa đông. Ngoài hiên cửa, nắng hanh vàng ruộm qua kẽ lá khế già sà xuống, mang đến cảm giác khô rát da người, nhưng khi đêm xuống, sương muối và gió bấc tràn về, nằm trong tấm chăn bông chần vẫn cảm nhận mồn một khí lạnh xuyên thấu thịt da. Tiết trời ấy, thiên nhiên chỉ ban tặng cho duy nhất mỗi tháng Chạp. Và theo tôi, khi đương Chạp cũng chính là lúc mùa đông đẹp nhất.
Nhớ những năm xưa, khi bà ngoại tôi còn sống, cứ đến Chạp lại nấu nước bồ kết gội đầu. Bồ kết được hái từ một gốc cây già sụ cuối vườn, để trong một chiếc sàng to, phơi dưới nắng đến khô giòn rụm, trái nào trái ấy cong cong khum khum như mảnh trăng non đầu tháng. Bà sẽ nướng bồ kết trên bếp củi, những con sâu nhỏ đục lỗ trong trái vì hơi lửa nóng quá phải tìm đường bò ra bạt trấu để thoát thân. Bồ kết nướng xong được bỏ vào siêu đun cho nước sôi lên. Xong, bà bắc ghế ra bờ giếng gội đầu. Tôi được bà nhờ múc nước giếng pha với nước nấu bồ kết cho đủ độ ấm. Vừa pha bà vừa chỉ dẫn cách vò bồ kết sao cho không bị vụn. Bà bảo, xưa ông bà thương nhau cũng vì trái bồ kết này.
Tôi khoanh tay ngồi xổm nhìn bà gội đầu. Dưới bóng nắng xiên khoai buổi chiều, bà ngoại tôi như người hiện về từ cổ tích. Dáng người nhỏ bé, tấm lưng còng gập được che phủ bởi màu áo nâu xồng rất cũ nhưng sạch sẽ và thẳng thớm vô cùng. Mái tóc trắng phau chảy tràn xuống chậu nước sóng sánh ánh vàng trông như một dải lụa màu cánh gián. Miệng bõm bẽm nhai trầu, lúc lúc lại hỏi chuyện vì lo đứa cháu ngồi cạnh buồn. Nhưng mà bà đâu biết rằng, tôi của khi ấy đã muốn xung quanh thật im lặng, nếu có chỉ là tiếng nước tiếng tóc va chạm vào nhau, để tôi được nhắm mắt hít trọn mùi hương bồ kết bốc lên, lan tỏa và quấn quyện khắp không gian. Đó là một mùi hương mộc mạc vô ngần, được tạo nên từ đồng đất và sương khói củi lửa của thời gian. Sau này khi được đi đến nhiều nơi, nếm trải nhiều vùng đất và phong vị, tôi vẫn không thể tìm thấy mùi hương nào thơm tho và nguyên thủy giống như mùi bồ kết mùa đông của bà tôi ngày ấy.
Khi bà gội xong phần mình, sẽ đến phần tôi được bà gội cho. Tôi thích nhất khi được bà vừa gãi đầu vừa tỉ tê kể chuyện. Bà thường hỏi bà gãi thế con có đau không? Có thích không? Cái vành tai nhìn ghét quá... Tôi sung sướng với đặc ân ấy của bà nên bà nói chi cũng gật hết, vì trong bầy cháu nhỏ, tôi là đứa duy nhất được bà gội đầu cho. Một cảm giác thần tiên diệu kỳ chảy trong trái tim niên thiếu của tôi khi được bàn tay già cỗi ấy chạm vào da vào tóc, và cho đến tận bây giờ, tôi vẫn đinh ninh đó là sự va chạm thân thể gây nên cảm giác mềm mại và run rẩy nhất cho bản thân mình.
Sau khi gội sạch đầu cho tôi, bà dẫn tôi lên hiên ngồi chải tóc. Làn gió bấc sau vườn thổi vụt qua sân, đâm thủng tấm áo cánh mỏng xuyên khí lạnh vào da thịt khiến tôi sởn gai ốc. Cùng lúc bà tôi “A” lên một tiếng khi chải được một con chấy kềnh trên đầu tôi. Tôi cầm lấy, thả nó xuống bờ hè và nhìn nó bò đi dưới cái nắng hanh tháng Chạp. Nó đẫy đà, căng bóng và ra vẻ là một chú chấy cường tráng. Tôi cứ nhìn mãi về đường đi của nó, cho đến khi tán lá khế rũ xuống hiên nhà để biết rằng, chiều đã xuống thật đậm rồi.
Chiều mùa đông là một trong những khoảnh khắc cô đơn nhất trần thế. Và những buổi chiều tháng Chạp cũng đã để lại nỗi nhung nhớ mơ hồ trong trí nhớ của tụi trẻ nhỏ nhà quê như chúng tôi. Sau giờ tan lớp buổi sáng, về nhà cất cặp sách và ăn tạm bát cơm, tôi và đám bạn rong trâu đi chăn đồng xa. Cánh đồng của đám trẻ chăn trâu chúng tôi ngày ấy tên là Nương Ngọa, cách nhà gần 5 cây số, bạt ngàn niềng niễng và cỏ gừng. Nơi ấy có cả núi và sông bao quanh, thấp thoáng có vài mái nhà tọa dưới chân núi mà những khi khát chúng tôi thường vào đó xin nước uống. Chạp sang cũng là khi lúa đã gặt hết, cả cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Gió từ sông thổi vào lồng lộng, tạo thành những cơn sóng rạ trên mặt ruộng khô. Tôi hay ngồi vắt vẻo trên lưng trâu, nơi có thể nhìn rất rõ lũ rận trâu đang bò lổm ngổm. Và trong những lúc vắt vẻo như thế, khi tôi còn đang mải nhìn về cánh đồng ngô phía bên kia sông Vàng thì bị cơn gió tạt tới làm bay mất chiếc nón mê. Tụi bạn nhào tới chạy theo cơn gió để bắt chiếc nón, nhưng càng đuổi theo gió càng đẩy ra xa cho đến khi chúng tôi mệt nhoài và nằm luôn xuống bờ ruộng. Tiếng cười khúc khích vang vọng cả cánh đồng, từ những đứa trẻ có đôi môi khô nứt nẻ đến gần như chảy máu và áo quần chi chít nhựa cây.
Trâu được thả trên đồng bãi ấy, tha hồ gặm cỏ và bơi đẵm mà không lo phạm đến lúa của nhà nào. Chúng tôi phó mặc đàn trâu cho cánh đồng, và hoàn toàn yên tâm với sự chiều chuộng của cỏ non sau gặt sẽ vừa bụng đàn trâu. Để như thế, tụi mục đồng chúng tôi được thả sức làm cái việc rất thú, đó là bắt cá rô đồng.
Rô đồng mùa Chạp rất béo, sau một thời gian trú đông và ăn nhiều thóc lúa. Thằng P. là đứa rất nhạy với việc nhìn ra chỗ rô đồng ẩn nấp. Thường thì những thửa ruộng gần rìa mương, nước xăm xắp, bùn dầy, rong rêu mọc xen kẽ sẽ có nhiều rô. Chúng tôi vun đất be bờ rồi lấy nón tát nước cho cạn. Sau đó cả bọn bì bõm mò móc, không khó để bắt được đám rô mình dày với cánh vây đầy gai sắc. Tôi vẫn nhớ cảm giác sung sướng của mình ngày ấy khi bắt được con rô đồng đầu tiên, nó rất bé nhưng đầy đặn và tròn một bụng trứng. Người quê tôi gọi đó là rô ron.
Có rô rồi, chỉ cần vơ củi đốt lửa lên là có ngay món cá nướng thơm lừng. Cá sẽ được xiên vào que, hơ trên đống củi nhãn cho đến khi cháy đen rơi hết lớp vẩy bên ngoài. Cầm con cá trên tay, trong khi còn đang xuýt xoa vì nóng thì chúng đã được bẻ ra làm đôi. Màu thịt cá trắng như bông, mùi thịt cá thơm mùi thơm đồng đất quê mùa khiến đứa nào đứa ấy thèm chảy nước miếng. Chúng tôi ăn uống xì xoạp, cười đùa lăn lộn, mặt mũi mồm mép đen sì vì củi than, trông cả bọn không khác gì một đám khỉ con thời còn chưa tiến hóa. Cả cánh đồng mênh mông một màn khói rạ bên trời, nghi ngút, bảng lảng và con người tuồng như mất dấu. Tiếng nghé ọ kêu tìm mẹ, nghe thương thiệt là thương... Ui chao cái con nghé con dễ ghét ấy, tụi tao còn đang chưa tàn tiệc cơ mà!
Trời tháng Chạp tối sớm. Chúng tôi buộc phải tàn cuộc để lùa trâu về nhà. Tôi tìm thấy một lạch nước, trên bề mặt đầy bụi và lá cây khô, nhưng chỉ cần khẽ khàng hớt hết váng bụi ấy sẽ nhìn thấy một màu nước sạch tinh, trong khiết. Tôi vục tay táp nước vào mặt. Nước lạch mùa đông lạnh ngắt, thấm đến từng lỗ chân lông và khiến tôi tỉnh ngủ. Khi ấy, núi đã ở lại phía sau, sông ở lại phía sau, khói trời nghi ngút cũng ở lại phía sau. Chỉ có những mình trâu đen sẫm, đẫy đà vì no bụng ở trước mặt. Trên quãng đường gần 5 cây số lùa trâu từ đồng về nhà, chúng tôi đã cùng nhau hát vang những bài ca tập thể như Lên đàng, Nối vòng tay lớn, Năm anh em trên một chiếc xe tăng... để xua đi cái lạnh đang tràn đẫm vào mình. Trời tối mịt. Một dàn hợp xướng mục đồng kéo dài suốt từ Nương Ngọa về đến làng, với những bóng nón ngắn tũn ngũn trên mình trâu to đùng. Về đến lò vôi, thoáng thấy vài ba bóng điện ló lên, làng đã ở trước mặt, mấy hộ gia đình sốt ruột mãi không thấy con rong trâu về nên đã ra đầu làng ngóng đợi. Mẹ tôi cũng là một người trong số ấy, bà mang áo khoác ra cho tôi, bồng tôi từ lưng trâu xuống, bà vừa mặc áo cho tôi vừa làu bàu “Chúng mày định ngủ ở dưới đấy hay sao mà giờ này mới chịu về?!”
Hội chúng tôi chăn trâu suốt cả năm nhưng vào mùa Chạp là thích nhất. Vì cánh đồng sau gặt khiến chúng tôi không phải canh trâu ăn lúa. Vì mùa Chạp nhiều thức ăn đồng quê có thể tự kiếm và chén ngay tại chỗ. Và nhất là, sau này khi lớn lên, tôi mới nhận ra rằng, tất cả chúng tôi - những đứa trẻ nhà quê nghèo khó ngày ấy, đều rất thích mặc nhiều lớp áo len đi đồng xa, để cởi bớt ra chia sẻ cho đứa thiếu áo mặc cùng...
Nhưng có lẽ, Chạp đã là những nốt vui trong sáng nhất trong quãng đời niên thiếu của thế hệ chúng tôi thời đó qua những ngày giáp Tết. Khoảng cữ từ lễ cúng ông Công ông Táo trở đi, làng tôi rậm rịch khí Tết. Nhà tôi có một mảnh nương bên đầm kênh, phía trước là sông Ngô và phía sau là núi Đức. Tôi thả trâu trên bờ đê gần nương nhà mình, tha thẩn tìm cỏ gà tự chơi. Dưới nương, mẹ tôi đang cắt lá dong về gói bánh chưng. Tôi đứng trên bờ đê, mẹ tôi ở dưới nương, hai người nói chuyện tưởng như vẳng lên tận vách núi. Hoa cải đắng nở vàng cả một triền nương, ngay dưới chân núi. Chị cả tôi khi ấy đã thành thiếu nữ, mẹ hay hái hoa cải về cho chị cắm trong phòng.
Hai bên quang gánh của mẹ tôi khi ấy, một bên là lá dong, một bên là hoa cải vàng. Mẹ tôi đội nón mê chít khăn bông, đi trên triền đê đầy gió một chiều cuối Chạp. Tôi vẫn luôn tin, hình ảnh ấy chứa đựng hơi thở hiền dịu nhất của đồng quê.
Thong dong dắt trâu theo mẹ về nhà, nghe tiếng người lớn hỏi han chuyện bánh chưng đụng lợn, tôi biết Tết đến nơi rồi. Những ngày giáp Tết, ruộng nương đã được cày xới xong xuôi, chỉ chờ ăn Tết xong, ra xuân đổ ải là vào mùa cấy. Những con lợn to nhất, béo nhất sẽ được dành để mổ ăn Tết. Có những rạng sáng đã nghe tiếng lợn kêu eng éc từ cuối xóm vọng về, biết rằng có nhà vừa mổ. Xong phút ấy, khi còn đang nằm trong chăn ấm, mấy chị em chúng tôi được mẹ đánh thức dậy để xem cha gói bánh chưng. Mắt môi còn chưa rạng, hai chân líu ríu xỏ dép quàng xiên, cốt để được thấy chiếc bánh đầu tiên cha đã gói xong. Đó là chiếc bánh nhà tôi để dành thờ tổ tiên trong 3 ngày Tết.
Cuối Chạp, khoảng 3 ngày trước Tết, tụi trẻ con chúng tôi rủ nhau đi quanh làng. Hết kháo nhau Tết này được mua áo mới lại dẫn nhau đến nhà nào tụ tập đông người. Đi đến đâu cũng thấy mùi bánh chưng luộc thơm nức bay lên. Tôi hay ngồi trước nồi bánh chưng nhà bà ngoại, nghe tiếng nước sôi ùng ục và tiếng bập bùng của củi thông. Má môi nứt nẻ hồng rực mà tay còn lấn cấn mãi không muốn buông vì mùi bánh chưng luộc. Nó ôm chứa cả một nếp sống và tâm hồn của làng quê ngày Tết. Và những khi ấy, nếu đứng từ trên đỉnh núi Nghè nhìn xuống, làng tôi đượm màu huyền thoại vì khói luộc bánh bốc lên lan tỏa khắp làng trông như những dải mây tiếp từ mặt đất.
Khi tôi viết những dòng này, hoa đào đang nở trong sân. Giêng tới Chạp tan. Mùa xuân vừa nhú sau tay áo người nông dân đi thăm mạ sáng mùng một Tết. Nhưng không hiểu sao, tôi luôn thấy Tết thực sự phơi phóng hồn mình đậm nhất phải là những ngày cuối Chạp chứ không phải Tết của sang mùng tháng Giêng. Tâm trạng háo hức, hồi hộp, thu vén của con người để lo một cái Tết lúc cuối Chạp hẳn là hay hơn khi ăn Tết. Vả lại, Chạp đã vĩnh viễn lưu giữ ở đấy những ký ức âm tính nhất của tôi về bà ngoại, về mẹ, về chị, về một tuổi thơ đồng ruộng nghèo khó mà đầm ấm.
Chạp đã ở lại phía sau, khi đã thở những hơi thở đặc quánh phong vị phương Đông nông nghiệp. Nhưng dẫu đã tan, Chạp vẫn đủ sức tỏa ra những vệt mùi quý mộc và ám ảnh nhất của một năm âm lịch. Bởi lẽ khi ở trong Chạp, người ta ngửi thấy mùi vị của Chính Mình, sau cả một năm chiêm nghiệm những đúng - sai, cho - nhận, được - mất...
N.H
(TCSH337/03-2017)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.