TÔ NHUẬN VỸ
(Kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao văn học giữa Hội Nhà văn Việt Nam và Trung tâm William Joiner (Mỹ).
Thăm vợ chồng nữ nhà văn Grace Paley
Thành công lớn nhất của các nhà văn, nhà thơ Mỹ của Trung tâm William Joiner (WJC) là, bằng lương tâm can đảm từ những ngày những người Mỹ tiến bộ còn bị “cấm vận” hết sức ngặt nghèo khi hoạt động ủng hộ Việt Nam, đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy việc bình thường quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và là tổ chức quan trọng nhất ở Hoa Kỳ, cho đến nay, đưa văn học Việt Nam đến với công chúng Mỹ. Nói như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “WJC đã là cầu nối giữa hai nền văn hóa, đã là chiếc tàu phá băng giữa lúc quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ còn đóng băng. Các anh đã làm được nhiều việc mà ngay các nhà chính trị cũng phải ngạc nhiên”.
Thành công này đã được nhiều người (trong đó có bản thân tôi) viết trên nhiều sách báo trong những năm qua và ngay tại cuộc gặp gỡ này. Ở đây tôi chỉ xin đề cập tới một lãnh vực hoạt động khác, khá “đặc biệt”, của WJC. Đó không chỉ là hoạt động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mà là kiên trì “hàn gắn” sự tan nát giữa những người Việt Nam vốn đứng trong hai chiến hào đối nghịch trong chiến tranh. Bắt nguồn xúc động từ trái tim nhân ái, WJC bắt đầu công việc lớn lao mà khó khăn này từ những trái tim nhạy cảm nhất, trái tim các nhà văn Việt Nam, từ hai phía.
Vấn đề nhạy cảm này đã được WJC chú ý từ rất lâu, từ chính thực tế “xương máu” trong các hoạt động của mình, từ những năm 90 của thế kỷ trước. Các cuộc biểu tình, ẩu đả phá rối những buổi đọc thơ, đọc văn của các nhà thơ nhà văn từ Việt Nam sang, các tờ rơi đe dọa sát hại, các cuộc nghe lén điện thoại cho đến các viên đạn bắn thẳng vào nhà nào “chứa chấp nhà văn cộng sản”… của những thế lực cực đoan trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt khiến anh em WJC thực sự “toát mồ hôi” vì họ không hề quen đối phó với loại miệng hô hào dân chủ đa nguyên nhưng hành xử như những kẻ lục lâm thảo khấu. Nhiều trường hợp những nhà thơ nhà văn “đô con” như Bruce Weigl, Kevin… phải đưa thân ra đỡ đòn cho những nhà văn nhà thơ “nhỏ thó” như Nguyễn Quang Sáng, Trần Đăng Khoa… WJC cho rằng các nhà thơ, nhà văn Việt Nam trong và ngoài nước có thể và nên làm nhịp cầu tiên phong xóa bỏ vết thương hận thù đau đớn đã kéo quá dài của dân tộc Việt Nam. WJC ra sức tìm kiếm các nguồn tài trợ để tổ chức các chương trình gặp gỡ, khảo sát, nghiên cứu… theo ước vọng cao cả này. Các chương trình đã mời nhiều nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, nhà tôn giáo… trong nước và nước ngoài tham gia. Không phải chỉ gay cấn chuyện lo kinh phí, lo lên chương trình, danh sách khách mời… mà thực tế WJC phải lo từ thượng vàng đến hạ cám, từ mua các loại vé tàu bay, tàu lửa, ô tô đến chỗ ăn nghỉ “đặc biệt” tại các “khách sạn 6 sao” là chính tại nhà của các nhà văn, nhà thơ nguyên “ở bên kia chiến tuyến”. Để “hai phe” cùng ngủ, cùng ngáy, cùng uống trà buổi sáng, cùng cụng rượu nửa đêm, cùng rỉ rả tâm sự cùng đập bàn tranh luận… để rồi cùng ôm nhau mày tao ứa nước mắt thân thiết, cùng lên án những gì đã đẩy xa anh em đồng bào ở hai đầu chiến tuyến cho nhân dân đau đớn và Tổ quốc hoang tàn. Đó là việc làm tưởng đơn giản nhưng thật ra vô cùng phức tạp, nhất là gần chục năm trước đây và ngay tại những nơi nhạy cảm như ở trung tâm quận Cam, ở Washington DC…, ở những nơi mà có lúc giăng đầy cờ vàng ba sọc đỏ.
Từ Việt Nam tham gia chương trình này có các anh chị Huệ Chi, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh, Lý Lan, Trịnh Cung, Nguyễn Đắc Xuân, Tô Nhuận Vỹ… Trong số kết quả của các cuộc gặp gỡ, nghiên cứu này có tập phỏng vấn các nhà văn nhà thơ Việt Nam hiện ở Hoa kỳ Nếu đi hết biển của Trần Văn Thủy và chuyên luận Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và hội nhập của Tô Nhuận Vỹ công bố trên liên mạng. Dù không ít người không đồng tình với một số quan điểm của các tác giả, thậm chí phản đối gay gắt, nhưng có một thực tế không thể chối cãi là hai công trình này đã gây nên một chấn động đặc biệt trong cộng đồng người đọc Việt Nam ở nước ngoài và lần đầu tiên sự gặp gỡ, sự đối thoại, sự tranh luận, sự thẳng thắn đối chọi tư duy của các nhà văn, của các nhà văn hóa vốn ở “hai đầu chiến tuyến”, đã diễn ra, được chấp nhận diễn ra. Không có tranh luận, không có trao đổi không thể đi đến chân lý. Theo hướng này, WJC đã tổ chức các cuộc nói chuyện, đọc tác phẩm của Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Quang Thiều, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa, Tô Nhuận Vỹ… trong các Đại học và cộng đồng người Việt, đã góp phần tích cực xóa bỏ làn ranh ngăn cách, hận thù. Tôi nhớ lại chuyến cùng Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam là Hữu Thỉnh vào mùa hè 2009 thăm Hoa Kỳ theo lời mời của WJC. Trước các cuộc gặp gỡ của ông với các anh chị nhà văn nhà thơ ở Boston, Washington DC, Quận Cam… không phải không có sự e ngại từ… cả hai phía. Nhưng, những phút dè dặt bỗng vụt qua mau khi những bài thơ tình tha thiết, những tâm sự sâu thẳm về thân phận con người, về số phận khắc nghiệt của Tổ quốc… được dốc ra cùng nhau. Rõ ràng không có gì thay thế được việc gặp gỡ, trao đổi.
Có thể nói rằng, từ sau 1975 đến nay, không có bất cứ một tổ chức nước ngoài nào, kiên trì và nhiệt tâm đóng góp vào sự thông cảm, xẻ chia, hòa hợp giữa các nhà văn, nghệ sĩ, nhà văn hóa, trí thức… Việt Nam khác chính kiến, trong và ngoài nước, ngoại trừ WJC!
*
![]() |
Hội thảo ở Đại học Massachusetts, từ trái qua: B.Weigl, L.Heinamann, Lady Borton, Tô Nhuận Vỹ |
Riêng với Thừa Thiên Huế, WJC có một quá trình quan hệ cũng… đặc biệt.
Đặc biệt đầu tiên là một số thành viên của WJC có quan hệ với Huế trước cả quan hệ với Hội Nhà văn Việt Nam, từ những vận động máy móc, thuốc men giúp đỡ bệnh viện TƯ Huế ngay sau năm 1975. Một trong những ấn phẩm đầu tiên của WJC, cuốn Writing Between the Lines, tuyển tập tác phẩm của các nhà văn nhà thơ Hoa Kỳ và Việt Nam đã đi thăm nhau, do Kevin Bowen và Bruce Weigl biên tập và tuyển chọn, đã ủng hộ toàn bộ số tiền nhuận bút tặng Bệnh viện TƯ Huế, giúp máy trợ thính cho trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Nước Ngọt, Trường tiểu học Thuận thành (cùng nhiều sách vở), cho học bổng để nhiều giảng viên tiếng Anh qua học chương trình sau đại học tại Đại học Massachusetts, trong nhiều năm đã cùng Đại học Huế tổ chức chương trình tìm hiểu văn hóa Việt Nam trong 3 tuần mỗi mùa hè, tại Huế, cho các công dân Hoa Kỳ có nhu cầu, làm cầu nối để nhóm ca Huế của Hội Văn nghệ tỉnh do nhà thơ Võ Quê dẫn đầu tham gia liên hoan dân ca quốc tế tại Lowell năm 1995 (là đoàn nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ sau chiến tranh), hết lòng cứu giúp con gái nhà văn Tô Nhuận Vỹ bị tai nạn…
Nhiều nhà thơ nhà văn ở Huế đã được WJC mời sang thăm và nghiên cứu tại Hoa Kỳ, như Lâm Thị Mỹ Dạ, Võ Quê, Nguyễn Đắc Xuân, Tô Nhuận Vỹ… và nhiều nhà thơ, nhà văn của WJC đã đến thăm và sáng tác tại Huế như Kevin Bowen, Fred Marchant, Bruce Weigl, Larry Heinemann, Lady Borton, Martha Colline, Nguyễn Bá Chung… và điều rất đặc biệt là gần như tất cả các nhà thơ này đều đã có nhiều bài thơ tặng riêng cho Huế! Nhiều bài thơ trong số đó đã được in trong tập thơ đặc biệt nhân cuộc gặp gỡ lần này. Tôi cần nhấn mạnh rằng, các bài thơ đó và nhiều bài viết sâu sắc khác của các nhà thơ nhà văn thành viên WJC đã được tạp chí Sông Hương đăng tải trong nhiều năm qua cho đến số mới nhất là số 3/2012 hôm nay. Và tạp chí Sông Hương là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam đăng những bài giới thiệu khá đầy đủ hoạt động của WJC.
Tôi mong rằng, các hoạt động đầy chất lượng trí tuệ và tình cảm, đầy hiệu quả của WJC, với Hội Nhà văn Việt Nam và với các cơ quan thân thiết ở Thừa Thiên Huế, sẽ được tiếp tục, ngay sau cuộc gặp gỡ này và các niên khóa tiếp sau.
T.N.V
(SH277/3-12)
Trong chuyến sang công tác Việt Nam, giáo sư tiến sĩ A-I-Niculin trưởng ban văn học Á-Phi của Viện Văn học thế giới mang tên Gorki (Liên Xô), đã đến Huế.
Trên hành trình vòng quanh nước Mỹ và ghi lại những bức ảnh cho cuốn sách mang tên “American Farmer” (tạm dịch: Nông dân Mỹ) của mình, Paul Mobley đã rất sốc khi biết rằng trong số những người làm việc trên các cánh đồng mà anh từng đi qua, có rất nhiều người đã trên 100 tuổi.
Mark Taimanov là trường hợp hiếm hoi trên thế giới khi cùng đạt tới đỉnh cao ở hai lĩnh vực là cờ vua và nhạc cổ điển.
TUỆ ĐAN
“Ngôn ngữ bị bão hòa và trở nên có sức sống thông qua thời gian”
(Jorge Luis Borges)
JEAN-PAUL SARTRE (Nhật Vương dịch)
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), nhà văn Pháp, là một trong số những gương mặt tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, thường được vinh danh là một trong số các triết gia hàng đầu của nền triết học Pháp thế kỷ XX.
TUỆ ĐAN
Nguồn mạch của tác phẩm tuôn ra từ sự cô đơn của nó, từ đó nó bắt đầu và tìm kiếm một tác lực cho sự khởi đầu ấy.
(Maurice Blanchot)
YẾN THANH
Thực thể Việt là một cấu trúc văn hóa động, trong đó nhiều yếu tố bản sắc chỉ được hình thành thông qua giao lưu với quốc tế, hấp thụ từ tinh hoa văn hóa nhân loại để biến “cái bên ngoài” trở thành “cái bên trong”.
LE VIEUX SIMON
Hồi ký
Trong thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion (1916 - 1945) hoàng tử Vĩnh San (tức cựu hoàng Duy Tân) đã có nhiều hoạt động văn hóa và chính trị.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Chiều ngày 13/10/2016, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã chính thức công bố giải Nobel Văn chương thuộc về nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ người Mỹ Bob Dylan với thông cáo giải thưởng được trao vì những phát kiến của ông trong việc tìm kiếm những cách diễn đạt thi pháp mới lạ cho truyền thống âm nhạc Mỹ.
Hòn đảo Cuba bé nhỏ và nghèo nàn hiện là một trong những nơi sản xuất ra các vũ công trẻ xuất sắc nhất thế giới. Nhà hát Ballet Hoàng Gia và Ballet Quốc gia Anh, San Francisco Ballet và New York City ballet đều có những diễn viên múa chính người Cuba. Làm thế nào một quốc gia nghèo nàn bị cô lập với 11 triệu dân có thể làm được điều đó?
Chúng ta đều biết rằng các nhân vật nổi tiếng thế giới như Albert Einstein, Benjamin Franklin, Natalie Portman, Ellen DeGeneres, Gandhi, Paul McCartney, Charles Darwin và Betty White cùng chia sẻ một điểm chung với nhau - đó chính là họ đều là những người có chế độ ăn dựa trên thực vật. Và có bao giờ bạn có hỏi lý do vì sao không?
Sau nhiều thế kỷ, các bức tường từng bảo vệ các Hoàng đế Trung Quốc trong Tử Cấm Thành đã bắt đầu suy yếu, gạch bị long ra và bề mặt đã có nhiều vết nứt.
TAMARA MOTYLEVA
Nhờ Tạp chí Văn học Obozreniye đăng tải "Những tư tưởng không hợp thời" của Maxim Gorky, chúng ta đã có thể hiểu nội dung sự khác biệt giữa ông với Lênin và những người Bônsêvích trước và sau cách mạng tháng 10.
Cách đây 75 năm, ngày 7/11/1941, nhân kỷ niệm 24 năm Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã tổ chức một buổi diễu binh, bất chấp những khó khăn, phức tạp của thời chiến khi quân phátxít Ðức đang ở cửa ngõ Moskva.
TUỆ ĐAN
Thân xác hiện hữu để rồi đem lại sức nặng và hình dạng cho sự tồn tại của chúng ta.
O. P.
Judith Lorber, sinh năm 1931, là giáo sư hưu giảng các môn Xã hội học và Phụ nữ học tại Trung tâm Tốt nghiệp thuộc Đại học Thành phố New York và Học viện Brooklyn. Bà là nhà lí thuyết nền tảng của kiến thiết xã hội về giới tính và đóng một vai trò then chốt trong việc tạo dựng và chuyển hóa ngành giới tính học.
PHẠM HỮU THU
Trong gần một tháng được ở “xứ sở chuột túi”, tôi có dịp đi đó đi đây và tiếp xúc với nhiều người, chủ yếu là kiều bào ta ở vùng Cabramatta - nơi được mệnh danh là thủ phủ của người Việt ở Australia.
NGUYỄN THỊ TUYẾT
Từ những chuyến tàu cưỡng bức xuyên Đại Tây Dương, người da đen đặt chân lên đất Mỹ với một nhân vị mới: người nô lệ. Toni Morrison ý thức sâu sắc về những cướp đoạt ấy, toàn bộ tác phẩm của bà không chỉ là lịch sử của người da đen (hơn ba thế kỷ) với tất cả những vấn đề khởi đi từ hệ lụy của màu da, mà quan trọng hơn, là nỗ lực mở ra một phả hệ mới, phả hệ của lòng nhân; và trên nền tảng bảo bối là bản sắc văn hóa, lịch sử tổ tiên, mỗi cá nhân phải giải thoát nhân vị nô lệ trong chính bản thân mình.
Ngày 17 tháng Chín vừa qua, tại Trung Tâm Nghệ thuật và Nghiên cứu Bétonsalon, thuộc trường đại học Paris VII-Didérot, thuộc quận XIII, Paris đã tổ chức triển lãm và hội thảo bàn tròn về các nghệ sỹ đương đại viễn xứ với chủ đề “Anywhere But Here”, trong đó có vua Hàm Nghi của Việt Nam.
Nữ văn sĩ nổi tiếng Chilê, Isabel Allende (Isabên Agiênđê) trả lời phóng viên tạp chí Cuba International (1987) trong chuyến đi thăm Cuba của bà.