Cầu nối giữa hai bờ đối nghịch

14:43 07/03/2012

TÔ NHUẬN VỸ

(Kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao văn học giữa Hội Nhà văn Việt Nam và Trung tâm William Joiner (Mỹ).

Thăm vợ chồng nữ nhà văn Grace Paley

Thành công lớn nhất của các nhà văn, nhà thơ Mỹ của Trung tâm William Joiner (WJC) là, bằng lương tâm can đảm từ những ngày những người Mỹ tiến bộ còn bị “cấm vận” hết sức ngặt nghèo khi hoạt động ủng hộ Việt Nam, đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy việc bình thường quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và là tổ chức quan trọng nhất ở Hoa Kỳ, cho đến nay, đưa văn học Việt Nam đến với công chúng Mỹ. Nói như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “WJC đã là cầu nối giữa hai nền văn hóa, đã là chiếc tàu phá băng giữa lúc quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ còn đóng băng. Các anh đã làm được nhiều việc mà ngay các nhà chính trị cũng phải ngạc nhiên”.

Thành công này đã được nhiều người (trong đó có bản thân tôi) viết trên nhiều sách báo trong những năm qua và ngay tại cuộc gặp gỡ này. Ở đây tôi chỉ xin đề cập tới một lãnh vực hoạt động khác, khá “đặc biệt”, của WJC. Đó không chỉ là hoạt động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mà là kiên trì “hàn gắn” sự tan nát giữa những người Việt Nam vốn đứng trong hai chiến hào đối nghịch trong chiến tranh. Bắt nguồn xúc động từ trái tim nhân ái, WJC bắt đầu công việc lớn lao mà khó khăn này từ những trái tim nhạy cảm nhất, trái tim các nhà văn Việt Nam, từ hai phía.

Vấn đề nhạy cảm này đã được WJC chú ý từ rất lâu, từ chính thực tế “xương máu” trong các hoạt động của mình, từ những năm 90 của thế kỷ trước. Các cuộc biểu tình, ẩu đả phá rối những buổi đọc thơ, đọc văn của các nhà thơ nhà văn từ Việt Nam sang, các tờ rơi đe dọa sát hại, các cuộc nghe lén điện thoại cho đến các viên đạn bắn thẳng vào nhà nào “chứa chấp nhà văn cộng sản”… của những thế lực cực đoan trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt khiến anh em WJC thực sự “toát mồ hôi” vì họ không hề quen đối phó với loại miệng hô hào dân chủ đa nguyên nhưng hành xử như những kẻ lục lâm thảo khấu. Nhiều trường hợp những nhà thơ nhà văn “đô con” như Bruce Weigl, Kevin… phải đưa thân ra đỡ đòn cho những nhà văn nhà thơ “nhỏ thó” như Nguyễn Quang Sáng, Trần Đăng Khoa… WJC cho rằng các nhà thơ, nhà văn Việt Nam trong và ngoài nước có thể và nên làm nhịp cầu tiên phong xóa bỏ vết thương hận thù đau đớn đã kéo quá dài của dân tộc Việt Nam. WJC ra sức tìm kiếm các nguồn tài trợ để tổ chức các chương trình gặp gỡ, khảo sát, nghiên cứu… theo ước vọng cao cả này. Các chương trình đã mời nhiều nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, nhà tôn giáo… trong nước và nước ngoài tham gia. Không phải chỉ gay cấn chuyện lo kinh phí, lo lên chương trình, danh sách khách mời… mà thực tế WJC phải lo từ thượng vàng đến hạ cám, từ mua các loại vé tàu bay, tàu lửa, ô tô đến chỗ ăn nghỉ “đặc biệt” tại các “khách sạn 6 sao” là chính tại nhà của các nhà văn, nhà thơ nguyên “ở bên kia chiến tuyến”. Để “hai phe” cùng ngủ, cùng ngáy, cùng uống trà buổi sáng, cùng cụng rượu nửa đêm, cùng rỉ rả tâm sự cùng đập bàn tranh luận… để rồi cùng ôm nhau mày tao ứa nước mắt thân thiết, cùng lên án những gì đã đẩy xa anh em đồng bào ở hai đầu chiến tuyến cho nhân dân đau đớn và Tổ quốc hoang tàn. Đó là việc làm tưởng đơn giản nhưng thật ra vô cùng phức tạp, nhất là gần chục năm trước đây và ngay tại những nơi nhạy cảm như ở trung tâm quận Cam, ở Washington DC…, ở những nơi mà có lúc giăng đầy cờ vàng ba sọc đỏ.

Từ Việt Nam tham gia chương trình này có các anh chị Huệ Chi, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh, Lý Lan, Trịnh Cung, Nguyễn Đắc Xuân, Tô Nhuận Vỹ… Trong số kết quả của các cuộc gặp gỡ, nghiên cứu này có tập phỏng vấn các nhà văn nhà thơ Việt Nam hiện ở Hoa kỳ Nếu đi hết biển của Trần Văn Thủy và chuyên luận Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và hội nhập của Tô Nhuận Vỹ công bố trên liên mạng. Dù không ít người không đồng tình với một số quan điểm của các tác giả, thậm chí phản đối gay gắt, nhưng có một thực tế không thể chối cãi là hai công trình này đã gây nên một chấn động đặc biệt trong cộng đồng người đọc Việt Nam ở nước ngoài và lần đầu tiên sự gặp gỡ, sự đối thoại, sự tranh luận, sự thẳng thắn đối chọi tư duy của các nhà văn, của các nhà văn hóa vốn ở “hai đầu chiến tuyến”, đã diễn ra, được chấp nhận diễn ra. Không có tranh luận, không có trao đổi không thể đi đến chân lý. Theo hướng này, WJC đã tổ chức các cuộc nói chuyện, đọc tác phẩm của Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Quang Thiều, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa, Tô Nhuận Vỹ… trong các Đại học và cộng đồng người Việt, đã góp phần tích cực xóa bỏ làn ranh ngăn cách, hận thù. Tôi nhớ lại chuyến cùng Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam là Hữu Thỉnh  vào mùa hè 2009 thăm Hoa Kỳ theo lời mời của WJC. Trước các cuộc gặp gỡ của ông với các anh chị nhà văn nhà thơ ở Boston, Washington DC, Quận Cam… không phải không có sự e ngại từ… cả hai phía. Nhưng, những phút dè dặt bỗng vụt qua mau khi những bài thơ tình tha thiết, những tâm sự sâu thẳm về thân phận con người, về số phận khắc nghiệt của Tổ quốc… được dốc ra cùng nhau. Rõ ràng không có gì thay thế được việc gặp gỡ, trao đổi.

Có thể nói rằng, từ sau 1975 đến nay, không có bất cứ một tổ chức nước ngoài nào, kiên trì và nhiệt tâm đóng góp vào sự thông cảm, xẻ chia, hòa hợp giữa các nhà văn, nghệ sĩ, nhà văn hóa, trí thức… Việt Nam khác chính kiến, trong và ngoài nước, ngoại trừ WJC!

*

Hội thảo ở Đại học Massachusetts, từ trái qua: B.Weigl, L.Heinamann, Lady Borton, Tô Nhuận Vỹ


Riêng với Thừa Thiên Huế, WJC có một quá trình quan hệ cũng… đặc biệt.

Đặc biệt đầu tiên là một số thành viên của WJC có quan hệ với Huế trước cả quan hệ với Hội Nhà văn Việt Nam, từ những vận động máy móc, thuốc men giúp đỡ bệnh viện TƯ Huế ngay sau năm 1975. Một trong những ấn phẩm đầu tiên của WJC, cuốn Writing Between the Lines, tuyển tập tác phẩm của các nhà văn nhà thơ Hoa Kỳ và Việt Nam đã đi thăm nhau, do Kevin Bowen và Bruce Weigl biên tập và tuyển chọn, đã ủng hộ toàn bộ số tiền nhuận bút tặng Bệnh viện TƯ Huế, giúp máy trợ thính cho trẻ em khuyết tật tại Trung tâm Nước Ngọt, Trường tiểu học Thuận thành (cùng nhiều sách vở), cho học bổng để nhiều giảng viên tiếng Anh qua học chương trình sau đại học tại Đại học Massachusetts, trong nhiều năm đã cùng Đại học Huế tổ chức chương trình tìm hiểu văn hóa Việt Nam trong 3 tuần mỗi mùa hè, tại Huế, cho các công dân Hoa Kỳ có nhu cầu, làm cầu nối để nhóm ca Huế của Hội Văn nghệ tỉnh do nhà thơ Võ Quê dẫn đầu tham gia liên hoan dân ca quốc tế tại Lowell năm 1995 (là đoàn nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ sau chiến tranh), hết lòng cứu giúp con gái nhà văn Tô Nhuận Vỹ bị tai nạn…

Nhiều nhà thơ nhà văn ở Huế đã được WJC mời sang thăm và nghiên cứu tại Hoa Kỳ, như Lâm Thị Mỹ Dạ, Võ Quê, Nguyễn Đắc Xuân, Tô Nhuận Vỹ… và nhiều nhà thơ, nhà văn của WJC đã đến thăm và sáng tác tại Huế như Kevin Bowen, Fred Marchant, Bruce Weigl, Larry Heinemann, Lady Borton, Martha Colline, Nguyễn Bá Chung… và điều rất đặc biệt là gần như tất cả các nhà thơ này đều đã có nhiều bài thơ tặng riêng cho Huế! Nhiều bài thơ trong số đó đã được in trong tập thơ đặc biệt nhân cuộc gặp gỡ lần này. Tôi cần nhấn mạnh rằng, các bài thơ đó và nhiều bài viết sâu sắc khác của các nhà thơ nhà văn thành viên WJC đã được tạp chí Sông Hương đăng tải trong nhiều năm qua cho đến số mới nhất là số 3/2012 hôm nay. Và tạp chí Sông Hương là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam đăng những bài giới thiệu khá đầy đủ hoạt động của WJC.

Tôi mong rằng, các hoạt động đầy chất lượng trí tuệ và tình cảm, đầy hiệu quả của WJC, với Hội Nhà văn Việt Nam và với các cơ quan thân thiết ở Thừa Thiên Huế, sẽ được tiếp tục, ngay sau cuộc gặp gỡ này và các niên khóa tiếp sau.

T.N.V
(SH277/3-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • ORHAN PAMUK    

    Trong bốn năm qua, tôi đã và đang viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử kể lại câu chuyện diễn ra vào năm 1901, trong suốt giai đoạn được biết đến với cái tên Trận đại dịch hạch thứ ba. Đó là một đợt bùng phát bệnh dịch hạch đã giết chết hàng triệu người ở châu Á khi mà châu Âu không chịu nhiều ảnh hưởng từ nó.

  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

    Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)