KATE CHOPIN
Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.
Nhà văn Kate Chopin - Ảnh: internet
Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường Công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.
Kate Chopin (Kate là Catherine, Chopin là họ chồng) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp. Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá.
![]() |
Kate Chopin với các con tại New Orleans năm 1877 - Ảnh: digitalhistory.uh.edu |
Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St. Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời. Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa. Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.
Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana và Missouri. Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening (Tỉnh thức), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là “nhàm chán”, “tầm thường”, “không lành mạnh”, thậm chí “độc hại”. Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ “đi trước thời đại”.
Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904 do xuất huyết não.
Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời. Sự lãng quên (bất công và đau đớn) này kéo dài tới gần... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định: “(Kate Chopin) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai (…). Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của sự thật và tính đa dạng của tự do”. Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.
Thông thạo tiếng Pháp, thấm nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp và đơn giản, những gì mình nhìn thấy.
![]() |
Truyện ngắn The Story of an hour (Câu chuyện một giờ), một trong những truyện ngắn hay nhất của Kate Chopin, được giới thiệu dưới đây. Có tin chồng của Louise bị tai nạn chết. Biết nàng bị bệnh tim nên người thân và bạn bè tìm cách báo tin khéo léo, tránh xúc động đột ngột. Ban đầu, nàng cũng đau đớn, vật vã khóc than, rồi rút về ngồi một mình trong phòng riêng. Nơi đây, khi bình tâm nhìn khung cảnh bên ngoài, dường như nỗi đau dần nguôi ngoai. Nàng quan sát những cảnh trí quen thuộc, mây bay, trời trong, cây xanh, mưa nhẹ hạt, nàng lắng nghe những âm thanh quen thuộc, tiếng rao hàng, tiếng nhạc, tiếng chim hót... Thế là một cảm giác lạ lùng, hân hoan, phấn khởi xâm nhập tâm hồn nàng. Nàng buột miệng nói: Tự do, tự do... và thanh thản nghĩ về tháng ngày dài phía trước. Nàng sẽ được tự do sống với sở thích và ước muốn của riêng mình.
Đến đây “câu chuyện một giờ” tưởng chừng kết thúc được rồi. Nhưng...
Ngay lúc này anh chồng bước vào…
Câu chuyện kết thúc quá bất ngờ, để cho người đọc tiếp tục suy nghĩ, bàn thêm những điều tác giả không nói.
Hiện nay, Kate Chopin được xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á Rập... và tiếng Việt.
Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu
Câu chuyện của một giờ
KATE CHOPIN (Nhà văn Hoa Kỳ, 1850 - 1904)
Vốn biết bà Mallard bị đau tim, mọi người hết sức cẩn thận và dè dặt lúc báo cho nàng tin chồng nàng đã chết. Chính em gái Josephine đã ngập ngừng bằng những câu đứt quãng, lờ mờ tiết lộ tin. Người bạn của chồng nàng, Richards, cũng ở đó, gần cô ta. Chính anh ta là người đã có mặt tại tòa soạn khi nhận tin tức về thảm họa đường sắt, với tên của Brentley Mallard đứng đầu danh sách những người tử vong. Anh ta chỉ có đủ thời gian để tự mình xác minh sự thật bằng một bức điện thứ hai, rồi vội vã ngăn trước bất kỳ người bạn nào ít cẩn trọng, ít tế nhị hơn đến đưa tin buồn.
Nàng không nghe câu chuyện như cách nhiều phụ nữ khác có thể nghe những tin kiểu như thế, bị tê liệt đến độ không hiểu ý nghĩa của nó. Nàng bật khóc, bất giác gục xuống trong vòng tay của em gái. Khi những phút đau buồn dịu đi, nàng bước một mình về phòng riêng. Nàng không muốn có ai đi cùng. Nàng đứng đó, mặt hướng ra cửa sổ mở rộng, cạnh một chiếc ghế bành rộng rãi, thoải mái. Nàng buông mình xuống ghế, chìm đắm trong sự kiệt quệ của thể xác và dường như của cả tâm hồn.
Nàng có thể thấy trong khoảng không gian vuông vắn trước nhà những ngọn cây lay động trong tiết xuân mới. Hơi mưa mát dịu trong không khí. Trên con đường bên dưới một người bán rong đang rao hàng. Các giai điệu của một bài hát xa xôi mơ hồ vọng đến tai nàng, rất nhiều chim sẻ đang hót vang dưới mái hiên.
Nàng ngồi tựa đầu lên đệm ghế, hoàn toàn bất động, ngoại trừ khi tiếng nức nở thoát ra từ cổ họng khiến nàng run lên, như một đứa trẻ đã khóc đến khi thiếp đi mà vẫn nức nở cả trong giấc mơ.
Nàng còn trẻ, với khuôn mặt bình thản, xinh đẹp và những đường nét toát lên vẻ cam chịu, thậm chí sự vững vàng của nghị lực. Nhưng giờ đây, ánh mắt của nàng đờ đẫn, nhìn đăm đăm một điểm cố định nào đó trên mảnh trời xanh. Đó không phải là cái nhìn phản ảnh cuộc sống, mà là một sự ngưng đọng về suy nghĩ thông minh.
Có một cái gì đó đang đến với nàng, và nàng đang đợi nó trong sợ hãi. Là điều gì?
Nàng không biết, nó quá tinh tế, khó mà gọi tên. Nhưng nàng cảm nhận được nó đang trườn ra từ bầu trời, đến tận bên nàng qua âm thanh, mùi hương, màu sắc ngập tràn không khí.
![]() |
Minh họa: Đặng Mậu Tựu |
Bây giờ lồng ngực của nàng đập mạnh. Nàng bắt đầu nhận ra nó, cái đang tới gần chiếm lĩnh tâm trí nàng và nàng đang cố gắng chống chọi bằng ý chí, bằng đôi tay yếu ớt trắng nhợt.
Khi nàng không kiềm chế được nữa, một tiếng thì thầm bất chợt thoát ra đôi môi hé mở. Nàng thốt ra nhiều lần trong hơi thở: “Tự do, tự do, tự do!” Ánh mắt trống rỗng và cái nhìn sợ hãi từ đôi mắt nàng ra theo âm thanh đó. Tia nhìn vẫn sắc sảo, sáng rực. Tim nàng đập nhanh khiến cơ thể ấm dần lên và dễ chịu hơn.
Nàng vẫn không ngừng lại để tự hỏi phải chăng một niềm vui quá lớn đã khiến nàng choáng ngợp. Một cảm nhận rõ nét và phấn khích khiến nàng không thể xem cảm giác này là bé nhỏ. Nàng biết rằng nàng sẽ khóc lần nữa khi nàng nhìn thấy đôi tay dịu dàng, thân thiết đang nắm lại khi lìa trần, khuôn mặt từng nhìn nàng chan chứa tình yêu, giờ bất động, xám lạnh, chết chóc. Nhưng nàng đã nhìn xa hơn, vượt qua cái khoảnh khắc đau đớn đó, thấy hiện ra một khoảng thời gian dài sắp tới sẽ hoàn toàn thuộc về nàng. Và nàng dang tay đón chào khoảng thời gian đó.
Sẽ không sống cho ai khác trong những năm tới, mà chỉ sống cho chính mình. Sẽ không có quyền lực nào khuất phục được nàng trong sự ngoan cố mù quáng mà với sự chiếm giữ đó đàn ông và phụ nữ ngỡ là họ có quyền áp đặt ý chí riêng của một cá nhân cho một cá nhân khác. Một ý định tốt hoặc xấu khiến hành động này dường như không khác gì một tội ác như nàng đã nhìn thấy trong thời khắc bừng tỉnh đó.
Liệu lâu nay nàng có yêu chồng? Có đôi lúc. Thường thì không phải là tình yêu. Nhưng điều đó nào có hề chi? Tình yêu bí ẩn chưa được giải mã, có gì quan trọng khi nàng chợt nhận ra động lực mạnh nhất của nàng chính là sự tự khẳng định!
Nàng tiếp tục thì thầm: “Tự do! Thể xác và tâm hồn được tự do!”
Josephine đang quỳ gối trước cánh cửa đóng kín với đôi môi áp vào lỗ khóa, xin được vào phòng. “Louise, mở cửa đi, em van chị mở cửa ra. Chị sẽ tự làm mình bệnh mất thôi! Chị đang làm gì vậy? Vì Chúa, xin mở cửa ra!”
“Em đi đi, chị không làm mình bệnh đâu mà sợ.” Không, nàng đã uống một loại thuốc tiên kỳ diệu của cuộc sống từ cánh cửa mở rộng.
Trí tưởng tượng của nàng đang bềnh bồng với những ngày tháng sắp tới. Mùa xuân, mùa hè, tất cả mọi ngày đều sẽ thuộc về nàng. Nàng thốt nhanh một lời cầu nguyện mong cho cuộc sống kéo dài. Chỉ mới hôm qua nàng đã sợ hãi nghĩ là cuộc sống có thể lâu dài.
Cuối cùng nàng cũng đứng dậy mở cửa trước sự van nài của em gái. Có một vẻ đắc thắng trong ánh mắt của nàng, nàng bước đi tự nhiên như một nữ thần Chiến thắng. Nàng ôm em siết chặt và họ cùng nhau bước xuống cầu thang. Richards đang đợi họ ở phía dưới.
Có ai đó đang dùng chìa khóa mở cửa. Chính là Brentley Mallard, người vừa bước vào, thân hình còn nhuốm bụi đường, ung dung xách chiếc va li du lịch và chiếc dù. Lúc xảy ra tai nạn anh ở cách xa nơi đó và cũng chẳng hề biết là có tai nạn. Anh đứng ngẩn người ngạc nhiên trước tiếng khóc xé lòng của Josephine, và Richards vội bước nhanh để che anh ta khỏi tầm nhìn của vợ.
Khi các bác sĩ đến, họ nói rằng nàng đã chết vì cơn đau tim - chết vì quá vui.
(SHSDB41/06-2021)
----------
Bản dịch từ nguyên bản tiếng Anh
(https://americanliterature.com/author/kate-chopin/short-story/ the-story-of-an-hour)
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).