Cảm nhận từ “Mây sóng ngày xưa”

15:50 11/08/2008
NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

 Chỉ một tập thơ MÂY SÓNG NGÀY XƯA của “thi sĩ lão thành” Trương Quân đang hiện diện trong chúng ta cũng đủ minh chứng cho điều đó. Với ông, thơ là ngôn ngữ ban đầu và cũng là ngôn ngữ sau cùng của đời mình. Thơ đã hiện diện và tồn tại trong ông như một tôn giáo cá thể.
Bàn về thơ thì từ trục ngang Đông Tây qua trục dọc Kim cổ người ta đã đưa ra vô số những chính kiến, lý lẽ. Nhưng chung qui lại, nó cũng chỉ gồm hai thành tố như Cao Bá Quát từng nói là tính tình qui cách. Nói theo thuật ngữ của các nhà phê bình mới thì đấy là cảm xúc thi pháp.
Về cảm xúc, trước hết nó là nguồn hứng khởi nội tại được thi sĩ mã hoá vào ngôn ngữ như một phương tiện truyền cảm. Đấy chính là cái hồn của thơ. Cái hồn thơ Trương Quân được rung lên từ tấc lòng chân thành về sự nhân ái, bao dung nên nó thấm đẫm tinh thần từ bi của Đạo Phật. Ông thương yêu, chia sẻ với từng số phận con người đến mọi sinh linh cỏ cây, muông thú và thậm chí cả những vật vô tri, vô giác nhỏ nhoi như hạt cát. Thơ ông là một chuỗi cảm hứng thống nhất giữa nhớ tiếc quá khứ và ám ảnh về tương lai. Chính vậy, nó lấp lánh một nỗi buồn. Ở đây, thơ đồng nghĩa với sự đổ vỡ tiềm tàng trong cái đẹp. Đọc thi phẩm Trương Quân, người ta cũng dễ nhận ra rằng, nỗi buồn đã mang tư cách một đặc trưng của thơ. Nỗi buồn là tình cảm nhân văn nhất, nó đánh thức lòng trắc ẩn và làm rung động con tim. Từ xưa, người Trung Quốc đã coi thơ là tiếng hát được cất lên từ những buồn thương, mất mát “Tâm chi ưu hỉ, ngã ca thảo dao” (lòng ta lo buồn, ta ca hát).
Về thi pháp, tập thơ mang nhiều cấu trúc về phương diện tổ chức ngôn ngữ từ cách luật đến tự do và một phần dáng dấp thơ hiện đại. Tác giả là người có tri thức, có bề dày văn hoá lịch sử nên đã kết hợp được nhuần nhuyễn giữa kinh nghiệm và cá tính sáng tạo để làm cho thơ của mình phong phú, đa dạng về nghệ thuật ngôn từ, về hình thức thể hiện. Thơ Đường luật từng là một hình thái ý thức xã hội của Tam giáo thời phong kiến Trung Quốc nên nó trĩu nặng cả hệ thống qui tắc ràng buộc như niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục... rất dễ bị chối bỏ trong bút pháp tự do phóng túng của người hiện đại. Vậy nhưng với thi sĩ Trương Quân, ông đã làm thơ niêm luật như chơi. Niêm luật mà không hề gò bó, nó vẫn tự nhiên, thanh thoát. Bởi vậy, mạch thơ lưu loát, trôi chảy nhưng tình thơ vẫn vấn vương, lưu giữ. Mảng thơ Đường luật của ông đã đạt tới sự hài hoà, mẫu mực và thanh tú. Các thể loại thơ khác trong tập này được coi như những thể nghiệm sáng tạo của tác giả nhưng ông cũng đã gặt hái được sự thành công. Người đọc sẽ gặp nhiều câu thơ xuất thần, nhiều bài thơ hoàn hảo trong MÂY SÓNG NGÀY XƯA.
Mỗi thời đại thi ca đều có giọng điệu riêng, hơi thở riêng của nó. Bởi vậy, hình thức thơ bao giờ cũng mang tính nội dung. Khi những rung động đang mơ hồ thai nghén cho thơ một hình hài văn bản thì đấy là công việc của vô thức chứ không phải công việc của ý thức. Điều này, dường như các nhà thơ đều vi phạm, đều dùng kinh nghiệm một cách lạm dụng để gò nó phải thế này hoặc phải thế kia. Chính thi sĩ Trương Quân cũng đã “việt vị” khi ông “đa hệ hoá kênh thơ” của mình. Từ đó, có thể nói MÂY SÓNG NGÀY XƯA còn lấp ló những nhược điểm “bất trị”, những nhược điểm mang hệ quả từ mặt ưu điểm của nó. Có lẽ cũng vì thế mà nói theo kiểu Huế thì mặc dù tập thơ rất “dễ thương” nhưng chưa “dễ sợ”. Cảm giác dễ sợ ấy là “thi trung hữu quỉ”, là quá hiếm hoi trong thời đại chúng ta.
MÂY SÓNG NGÀY XƯA được chắt chiu, chưng cất bằng một đời thơ của thi sĩ Trương Quân và nó đã mang lại cho chúng ta một thông điệp đầy kiêu hãnh rằng, trong thế giới hữu hình, sai biệt này, con người vẫn có một năng lực phù phiếm nhưng rất sang trọng. Năng lực ấy là cứu cánh cuối cùng trên thăm thẳm hành trình về phía hư vô.
Huế - TP.Hồ Chí Minh 2002
N.T.L.D

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.