Cảm nghĩ “Viết ở Tử Cấm Thành”

09:27 20/06/2016

HOÀNG DIỆP LẠC

Người ta biết đến Nguyễn Duy Tờ qua tập sách “Xứ Huế với văn nhân” xuất bản năm 2003, với bút danh Nguyễn Duy Từ, anh lặng lẽ viết với tư cách của một người làm ngành xuất bản.

Năm 2010 anh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài: “Sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 - 1945” qua những tác phẩm lớn của các tác giả tên tuổi đã dấn thân, để lên án mạnh mẽ sự hà khắc của chế độ thời bấy giờ. Thật bất ngờ trong không khí tưng bừng của những ngày Festival Huế 2016, Nguyễn Duy Từ lại ra mắt tập thơ “Viết ở Tử Cấm Thành”, bìa do nhà thơ Hải Trung thiết kế, cùng những phụ bản của họa sĩ Đặng Mậu Triết, Nguyễn Đăng Sơn. Càng ngỡ ngàng hơn, khi mỗi bài thơ của anh đều mang dáng vẻ của một thi nhân đang suy tư về các vấn đề xã hội đầy trách nhiệm. Từng câu từng chữ trong mỗi bài thơ của Nguyễn Duy Từ như một phép tinh giản đến mức kiệm chữ.

Mỗi nhà thơ, mỗi người làm thơ, dù chỉ một bài hay hàng trăm bài, nếu thơ chỉ là trò giải trí bông đùa rẻ rúng, hoặc dành cho những kẻ mua danh bọt bèo thì chẳng có gì để nói. Bởi vì thơ là tiếng lòng, là nỗi trắc ẩn của một con người không vô cảm trước đồng loại, không thờ ơ trước bất công. Trong ý nghĩa đó, thơ Nguyễn Duy Từ đã góp phần lên án cái ác, cái xấu, lên án những con người im lặng, thản nhiên trước cái xấu ác đang hoành hành, cho dù anh chỉ nghe mẩu tin trên tờ nhật báo:

Lũ tội đồ đời mới
không đóng đinh Chúa Jesu vào cây thập giá
chúng đóng hàng ngàn Chúa Trời vào phòng hun lửa
dìm vào đói, vào khát, trói vào hàng rào chất nổ treo giăng lúc lỉu
và nỗi sợ hãi tột cùng.
Ơi những em bé thiên thần Beslan!


Cái ác không ngoại trừ một ai, dù cho là trẻ thơ, trước cuộc chiến phi nghĩa đã khiến hàng trăm người vô tội bỏ mạng, hàng triệu người phải di cư, trong đó có hình ảnh em bé Aylan Kurdi chết trôi vào bờ biển đã khiến nhà thơ liên tưởng đến “Một tương lai đã chết” dù nền văn minh nhân loại đã bước qua thế kỷ hai mươi mốt.

Tháng 9 năm 2015:

- Em bé Aylan Kurdi
- Người Siria
- Đã chết trên đường di cư
- Xác dạt vào bờ biển nước Thổ.


Và nỗi trăn trở của anh về con người, xã hội mà những lời hứa suông luôn đẹp luôn hay, nhưng tính người không còn nữa, chất người đã không còn nữa.

Còn bao nhiêu tính người, để đo?
Còn bao nhiêu chất người, để giữ?


Khi mọi lý tưởng vẫn chỉ là giả định về một thế giới không yên bình, với nhà thơ sự bất an luôn chờ chực trong tâm tưởng:

Thời đại chưa tan băng những nắm đấm micrô,
Hòa bình treo trên đầu chót lưỡi.
Thời đại những viễn ảnh sáng lòa
Người hành hương đi mãi không nhà


Bất kỳ ở đâu trên mặt đất này, người nghệ sĩ như một kẻ cứu chuộc, một kẻ tình nguyện hành hình trong thế giới tinh thần, để hóa thân nỗi đau qua ngòi bút, nhằm lên án sự dối trá, lên án sự dã man, phi nhân tính, đi ngược lại con đường tiến bộ của loài người. Trong đó có những con người không dám vứt bỏ những sai lầm bị thế giới lên án, không thể làm ra cái mới hay hơn, lại đi chỉnh sửa câu chuyện đã được cả thế giới tiến bộ công nhận. Sửa Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du; một danh nhân văn hóa thế giới, như một sự xúc phạm tiền nhân, xúc phạm vào truyền thống văn hóa dân tộc. Điều đó đã khiến Nguyễn Duy Từ gióng lên từ cõi lòng:

Đất nước thế kỷ hai mươi mốt,
Có người đem “Truyện Kiều” sửa đổi.
Giật mình tưởng có thi hào mới,
Giật mình tưởng có kiệt tác mới.
Cụ Nguyễn Du ơi!


Thơ Nguyễn Duy Từ tứa ra từ nỗi đau, nỗi nhớ, nỗi buồn ẩn trong tận từng con hồng cầu. Anh nhớ mẹ, hình ảnh người mẹ xuất hiện nhiều trong tập thơ, nhưng có lẽ vẫn là chưa đủ. Anh nhớ những chiều đông giá buốt khi đang học Sư phạm một Hà Nội, chợt nhớ mùi rơm rạ, bụi môn, bó củi, con heo,... ở quê nhà của một thời chưa xa, qua bài “Tiếng thở đêm”:

Hãy bỏ ta đi cơn mỏi.
Mai có còn tiếng bước chân rối rít, líu ríu dạ thưa thăm thẳm nỗi
niềm, mẹ móm mém miệng cười tươi màu hồng trầu cau, mẹ rằng
đau trông được thấy dâu con, rau muống rau khoai tương cà mắm
muối ngon như lát bánh chiều ba mươi.


“Tiếng thở đêm” hay chính là lời thao thức của một kẻ ly hương đang độc thoại trong kí ức, độc thoại cùng những âm thanh thánh thót của tiếng chuông, những âm hưởng của nền văn minh bao cấp còn kẹt lại trong góc khuất thị thành, hay chính là gợi tưởng về một người em hiến tặng giọt lệ được nhà thơ thi vị hóa thành giọt mưa.

Đêm dài.
Có tiếng chuông ngân đâu đây nhỉ? Hay tiếng leng keng tàu điện
Bờ Hồ về Cầu Giấy, Hà Đông, Đồng Xuân, Mơ, Bưởi… Hôm ấy em
tặng tôi một giọt mưa, và nói rằng anh đưa ướp vào trang sách phố
Tràng Tiền, Đinh Lễ để về quê mãi nhớ tấm lòng em.


“Tiếng thở đêm” là cách diễn đạt thơ theo lối viết văn xuôi, nhưng âm hưởng bài thơ rất nhẹ, đưa người đọc trở về cùng những kí ức của làng quê, của phố thị thời người ta tặng nhau “một giọt mưa”, cái thời lãng mạn siêu hiện thực đó bây giờ tìm đâu ra. Cái thời vật chất chưa lên ngôi thống trị những tâm hồn gọi là trí thức như bây giờ.

Tập “Viết ở Tử Cấm Thành” là tập thơ đầu tiên của tiến sĩ Nguyễn Duy Tờ, tập thơ chuyên chở một nội hàm sâu sắc, cảnh báo về sự xuống cấp của con người, của xã hội. Qua đó, anh đã gửi gắm tình cảm của mình với vùng đất anh đã ngang qua như Hà Nội, Huế, Nha Trang, Pleiku, Cần Thơ,... và những người thân đã đồng hành cùng anh trong mỗi chặng đường, để rồi người còn, người mất, nhưng nghĩa tình luôn đọng lại trong “Vũ điệu Tử Cấm Thành”:

Tử Cấm Thành
Một chiều thu ta gặp
Ngọn gió xưa thủ thỉ gọi trời xanh
Tiếng gót chân khẽ chạm lạnh sân rồng.


H.D.L
(TCSH328/06-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.