Gabriel Garcia Marquez - Ảnh: ct.gov
Ngài gặp cô ở Rosal del Virrey, một ngôi làng hư cấu mà vào ban đêm là chiếc khăn quàng bí mật cho những con tàu của bọn buôn lậu; và ngược lại, vào thanh thiên bạch nhật trông giống như lỗ thoát nước vô dụng nhất trên sa mạc, đối diện với một mặt biển xấu và không có phương hướng và quá xa khỏi mọi thứ mà không ai đoán được rằng một người nào đó có khả năng thay đổi số phận của bất cứ ai sống ở đó. Thậm chí ngay cả cái tên của nó cũng là một kiểu khôi hài, vì cây hoa hồng duy nhất ở ngôi làng ấy đã bị xài mòn bởi chính nghị sĩ Onesimo Sanchez vào cùng buổi chiều khi ngài gặp Laura Farina. Đó là một điểm dừng không thể tránh khỏi trong chiến dịch tranh cử mà ngài thực hiện mỗi năm bốn lần. Các toa xe lễ hội đã đến nơi vào buổi sáng, sau đó đến các xe tải với những người da đỏ thuê mướn, những người được đem vào thành phố nhằm khuếch trương đám đông ở các buổi lễ công cộng.
Lần đầu tiên trong 12 năm, Nelson Farina không đi đón chào ngài nghị sĩ. Ông lắng nghe bài diễn văn từ chiếc võng lưới của ông giữa những phần còn lại của giấc ngủ trưa, dưới lùm cây mát mẻ của một ngôi nhà bằng ván không bào ông đã xây dựng lên với đôi bàn tay của cùng một dược sĩ mà với chúng ông đã quyến rũ và gia hình người vợ thứ nhất của ông. Ông đã trốn thoát khỏi Đảo Quỉ và xuất hiện ở Rosal del Virrey trên một con tàu chở đầy những con chim vẹt ngây thơ, với một người phụ nữ da đen xinh đẹp và báng bổ thần thánh mà ông tìm thấy ở Paramaribo mà với người này ông có một đứa con gái. Người vợ chết vì những nguyên cớ tự nhiên chẳng bao lâu sau đó và bà đã không chịu đựng số phận của người vợ kia, người mà những mảnh vụn của bà đã làm màu mỡ cho luống đất trồng bắp cải của bà, nhưng được chôn tất cả cùng với cái tên Hà Lan của bà trong nghĩa trang địa phương. Cô con gái thừa hưởng màu da và hình thể của bà cùng với đôi mắt vàng và kinh ngạc của cha nàng, và ông có lý do tốt đẹp để tưởng tượng rằng ông đang nuôi nấng người phụ nữ đẹp nhất trên đời. Kể từ khi ông gặp nghị sĩ Onesimo Sanchez trong chiến dịch tranh cử đầu tiên của ngài, Nelson Farina đã cầu xin sự giúp đỡ của ngài trong việc làm ra một tấm thẻ căn cước sẽ đặt ông ngoài tầm của pháp luật. Ngài nghị sĩ, trong một cái cách thân hữu nhưng quả quyết, đã từ chối. Nelson Sanchez không bao giờ chịu thua, và trong vòng vài năm, mỗi lần ông tìm ra cơ hội, ông sẽ lập lại lời yêu cầu của mình với một sự trông cậy khác nhau. Nhưng lần này ông ở lại trong chiếc võng của mình, kết án phải sống mục rửa trong cái hang nóng như thiêu đốt của những tên cướp biển. Khi ông nghe những tiếng hoan hô sau cùng, ông nhấc đầu lên, và nhìn xuyên qua những tấm ván của hàng rào, ông thấy mặt sau của trò hề, các đồ dùng sân khấu của các tòa nhà, khung sườn của những cái cây, những nhà ảo thuật đang đẩy con tàu xuyên đại dương chạy dọc đi. Ông gây gổ mà chẳng thù hằn gì. “Merde,” ông nói, “C’est le Blacamén de la politique.” (Cứt. Đó là bọn Blacamén của chính trị). Sau bài diễn văn, như phong tục, ngài nghị sĩ đi bộ vòng quanh các đường phố giữa âm nhạc và hỏa tiễn được bao vây bởi người dân của thành phố, những người kể cho ngài về những khó khăn của họ. Ngài nghị sĩ lắng nghe một cách tử tế và ông luôn tìm ra một cách nào đó để an ủi mọi người mà không phải làm cho họ bất cứ sự giúp đỡ cực nhọc nào. Một phụ nữ ngồi trên mái một ngôi nhà với sáu đứa con nhỏ nhất của mình cố làm cho nghe được giữa tiếng la hò và tiếng xe cứu hỏa. “Tôi không hỏi nhiều đâu, ngài nghị sĩ,” bà nói, “Chỉ một con lừa để kéo nước từ Suối của Người Treo Cổ.” Ngài nghị sĩ chú ý đến sáu đứa con ốm yếu của bà. “Chuyện gì xảy ra với chồng bà vậy?” “Anh ta đi kiếm vận may của mình ở đảo Arruba,” người phụ nữ trả lời chất phác, “và những gì anh ta tìm thấy là một phụ nữ nước ngoài, cái loại gắn kim cương vào răng ấy mà.” Câu trả lời mang lại một tràng cười. “Được rồi,” ngài nghị sĩ quyết định, “bà sẽ có con lừa của bà.” Một lát sau một người phụ tá của ông đem một con lừa tải hàng tốt đến ngôi nhà của người phụ nữ và trên mông đít nó có một khẩu hiệu của chiến dịch được viết bằng sơn không xóa được để không ai có bao giờ quên rằng nó là một quà tặng từ ngài nghị sĩ. Dọc theo quãng ngắn của dường phố, ngài làm những cử chỉ khác nhỏ hơn, và thậm chí ngài còn đưa một muỗng thuốc tây cho một người bệnh đã có cái giường của ông đưa ra cửa của ngôi nhà ông để ông có thể nhìn thấy ngài đi qua. Ở góc phố sau cùng, ngài thấy Nelson Farina trên chiếc võng, trông có vẻ tái mét và buồn bã, nhưng tuy vậy ngài nghị sĩ cũng chào ông mà không để lộ sự cảm động nào. “Hello, ông khỏe chứ?” Nelson Farina xoay mình trong võng và dìm ngài vào trong màu vàng hổ phách buồn rầu của cái nhìn của ông. “Moi, vous savez.” (Tôi à, các ông hiểu mà) ông nói. Con gái ông đi ra sau khi cô nghe tiếng chào mừng. Cô bận một cái váy da đỏ Guajiro rẻ tiền, bạc màu, đầu cô trang hoàng những cái nơ màu, và khuôn mặt cô được sơn như lớp bảo hộ chống lại ánh nắng, nhưng thậm chí trong tình trạng cần sửa chữa ấy thật khó tưởng tượng rằng từng có ai khác xinh đẹp như thế trên toàn thế giới. Ngài nghị sĩ thở không ra hơi. “Tôi sẽ bị trời đánh mất!” ngài thở trong nỗi kinh ngạc. “Chúa đã tạo ra những sinh vật điên cuồng nhất!” Đêm đó Nelson Farina ăn bận cho cô con gái y phục đẹp nhất của cô và gởi cô đến ngài nghị sĩ. Hai vệ sĩ trang bị súng trường gật đầu từ cái nóng ở ngôi nhà thuê ra lệnh cô đợi ở chiếc sopha duy nhất trong tiền sảnh. Ngài nghị sĩ ở phòng kế bên đang gặp gỡ những người quan trọng của Rosal del Virrey, những người mà ngài tụ tập lại để ca cho họ nghe những sự thật mà ông đã để ra ngoài bài diễn văn. Trông họ quá giống tất cả những người ngài gặp luôn ở tất cả các thành phố trong sa mạc đến nỗi thậm chí bản thân ngài nghị sĩ cũng đâm bệnh và mệt mỏi về cuộc họp đêm đều đều ấy. Áo sơmi ngài đẫm mồ hôi và ngài đang cố gắng làm khô nó trên thân thể ngài với cơn gió hiu hiu nóng từ một cái quạt điện đang kêu rồ rồ như một con ngựa bay trong cái nóng nặng nề của căn phòng. “Chúng ta, tất nhiên không thể ăn được chim giấy,” ngài nói, “Các ông và tôi đều biết rằng ngày hôm nay có cây cối và bông hoa ở cái đống phân ngỗng kia, ngày hôm nay có cá mòi thay vì là côn trùng trong những cái hố nước, rằng ngày hôm nay không những các ông mà tôi cũng chẳng có gì để làm ở đây cả, tôi tự làm mình minh bạch chưa nào?” Không ai trả lời. Trong khi ngài nói, ngài nghị sĩ xé một tờ giấy khỏi cuốn lịch và trang hoàng từ đó ra một con bướm giấy với hai bàn tay ngài. Ngài ném nó mà không có đích nhắm đặc biệt nào vào trong luồng không khí đang đến từ cái quạt và con bướm bay loanh quanh căn phòng sau đó đi ra ngoài qua cánh cửa mở một nửa. Ngài nghị sĩ tiếp tục nói với sự kiểm soát được hỗ trợ của sự đồng lõa của cái chết. “Do đó,” ngài nói, “Tôi không phải lập lại với các ông những gì các ông thực sự đã biết rất rõ: rằng cuộc tái tranh cử của tôi là một công việc tốt đẹp cho các ông hơn là cho tôi, bởi vì tôi được nuôi lớn bởi nước tù hãm và mồ hôi của người da đỏ, trong khi dân tộc các ông, ngược lại, kiếm sống dựa vào nó.” Laura Farina nhìn con bướm giấy bay ra. Chỉ có cô thấy nó vì các lính canh trong tiền sảnh đã thiếp ngủ trên các bậc cấp, ôm lấy súng trường của họ. Sau một vài vòng, con bướm lớn in bằng ốp sét trải cánh ra hoàn toàn, đập vào bức tường, và vướng luôn vào đó. Laura Farina cố dùng móng tay kéo nó ra. Một trong những người lính canh, kẻ thức giấc bởi tiếng hoan hô trong phòng kế bên, để ý đến cố gắng vô vọng của cô. “Nó sẽ không thoát ra được đâu,” hắn nói một cách buồn ngủ. Laura Farina lại ngồi xuống khi những người đàn ông bắt đầu đi ra khỏi cuộc hội kiến. Ngài nghị sĩ đứng ở ô cửa của căn phòng với bàn tay trên chốt cửa, và ngài chỉ nhận ra Laura Farina khi tiền sảnh đã trống trải. “Cô làm gì ở đây?” “C’est de la part de mon pere,” (Đây là chỗ của cha tôi) cô nói. Ngài nghị sĩ hiểu. Ngài quan sát những người lính canh đang ngủ, sau đó ngài quan sát Laura Farina, người mà sự trẻ đẹp còn đòi hỏi hơn cơn đau của ngài, và sau đó ngài quả quyết rằng cái chết đã tạo ra quyết định cho ngài. “Vào đây,” ngài bảo cô. Laura Farina đứng thần người ra trong ô cửa dẫn đến căn phòng: cả ngàn tấm chi phiếu ngân hàng đang bay lượn trên không trung, vỗ cánh như những con bướm. Nhưng ngài nghị sĩ tắt quạt và những tờ phiếu rơi xuống mà không có gió và đập vào đồ đạc trong phòng. “Cô thấy không,” ngài nói, mỉm cười, “ngay cả cứt cũng có thể bay.” Laura Farina ngồi xuống trên một cái ghế đẩu của học trò. Da dẻ cô bóng láng và chắc chắn, với cùng một sự cô đặc năng lượng mặt trời như dầu thô, tóc cô là bờm của một con ngựa cái trẻ, và đôi mắt lớn của cô còn sáng hơn cả ánh đèn. Ngài nghị sĩ dõi theo tia nhìn của cô và sau cùng nhận ra cây hoa hồng, vốn đã bị lu mờ bởi chất hóa tiêu. “Nó là một cây hoa hồng,” ngài nói. “Phải,” cô nói với chút ít ngỡ ngàng, “Tôi đã học được chúng là gì ở Riohacha.” Ngài nghị sĩ ngồi xuống trên một cái giường nhỏ của quân đội, nói chuyện về hoa hồng trong khi ngài cởi nút áo sơmi. Ở nơi mà ngài tưởng tượng trái tim ngài ở bên trong ngực áo ngài có một vết xăm của một tay cướp biển về một trái tim bị đâm xuyên qua bởi một mũi tên. Ngài ném cái áo sơmi ướt nước xuống sàn nhà và đề nghị Laura Farina giúp ngài cởi đôi giày ống ra. Cô quì gối xuống đối diện với cái giường. Ngài nghị sĩ tiếp tục quan sát cô, một cách suy tư, và trong khi cô tháo dây giày ra ngài thắc mắc không biết một trong chúng sẽ có kết thúc với vận rủi của cuộc gặp gỡ này hay không. “Cô chỉ là một đứa trẻ,” ngài nói. “Ngài có tin việc này không,” cô nói, “Tôi sẽ mười chín tuổi vào tháng Tám.” Ngài nghị sĩ trở nên chú ý. “Ngày gì?” “Ngày 11” cô nói. Ngài nghị sĩ cảm thấy tốt hơn. “Chúng ta đều thuộc sao Bạch dương,” ngài nói. Và mỉm cười, ngài nói thêm, “Là dấu hiệu của sự cô độc.” Laura Farina không để ý vì cô không biết phải làm gì với những chiếc giày. Ngài nghị sĩ, về phần mình, không biết làm gì với Laura Farina, vì ngài không quen với những cuộc tình bất ngờ và, hơn nữa, ngài biết rằng người trong tay có nguồn gốc của sự ô danh. Chỉ để có thời gian suy nghĩ, ngài giữ chặt Laura Farina giữa hai đầu gối ngài, ôm siết cô quanh ngực, và ngã lưng nằm xuống chiếc giường quân đội, sau đó ngài nhận ra cô trần truồng dưới chiếc áo dài, vì thân thể cô toát ra cái mùi đậm đà của con thú rừng núi, nhưng trái tim cô kinh sợ và da dẻ cô lộn xộn bởi một thứ mồ hôi lạnh buốt. “Không ai yêu thương chúng ta,” ngài thở dài. Laura Farina cố nói một điều gì đó, nhưng chỉ có đủ không khí cho cô thở. Ngài đặt cô bên cạnh ngài để giúp cô, ngài tắt đèn và căn phòng nằm trong bóng tối của cây hoa hồng. Cô buông bỏ mình cho những điều tốt lành của số phận cô. Ngài nghị sĩ mơn trớn cô một cách chậm rãi, lấy bàn tay ngài tìm kiếm cô, trần truồng chạm vào cô, nhưng ở nơi mà ngài mong tìm thấy cô, ngài đi qua một cái gì đó sắt thép trên đường tới. “Cô có cái gì ở đó vậy?” “Một ổ khóa,” cô nói. “Quái gì thế?” ngài nghị sĩ giận dữ nói và hỏi cái mà ngài cũng biết quá rõ, “Chìa khóa đâu?” Laura Farina cho ra một tiếng thở nhẹ nhõm, “Cha tôi có nó,” cô trả lời. “Ông bảo tôi nói với ngài hãy gởi một trong những người của ngài đi lấy nó và gởi đến cùng với ông một lời hứa viết tay rằng ngài sẽ sắp xếp tình hình của ông ấy.” Ngài nghị sĩ trở nên căng thẳng. “Đồ ếch đẻ hoang,” ngài thầm thì một cách phẫn uất. Đoạn ngài nhắm mắt lại thư giãn và ngài gặp mình trong bóng tối. “Hãy nhớ,” ngài nhớ, “rằng cho dù ông hay bất cứ người nào khác, nó sẽ không kéo dài trước khi ông chết và thậm chí nó sẽ không kéo dài trước khi tên ông không được lưu lại.” Ngài đợi cho đến khi cơn thịnh nộ qua đi. “Nói cho tôi một điều,” sau đó ngài hỏi, “Cô đã nghe gì về tôi?” “Ngài có muốn thành thật trước chân lý của Chúa không?” “Thành thật trước chân lý của Chúa.” “Được,” Laura Farina mạo hiểm, “họ nói ngài còn tệ hơn những người còn lại vì ngài khác biệt hẳn.” Ngài nghị sĩ không nổi giận. Ngài giữ im lặng trong một lúc lâu với đôi mắt nhắm lại, và khi ngài mở chúng ra lần nữa, ngài có vẻ như quay lại với những bản năng được che giấu nhất của ngài. “Ồ, quỉ sứ,” ngài quyết định, “Hãy nói với đồ chó đẻ cha cô là tôi sẽ sắp xếp tình hình của ông ta.” “Nếu ngài muốn, đích thân tôi sẽ đi lấy chiếc chìa khóa,” Laura Farina nói. Ngài nghị sĩ giữ cô lại. “Quên chiếc chìa khóa đi,” ngài nói, “và ngủ với tôi một lát. Thật tốt được ở với ai đó khi bạn chỉ có một mình.” Sau đó cô đặt đầu vào vai ngài với đôi mắt gắn chặt vào cây hoa hồng. Ngài nghị sĩ ôm cô quanh ngực, vùi mặt ngài vào nách con vật rừng, và chịu khuất phục trước con vật khủng khiếp. Sáu tháng và 11 ngày sau, ngài sẽ chết ở cùng tư thế này, mất phẩm chất và không được công nhận bởi xìcăngđan công khai với Laura Farina và khóc trong giận dữ lúc hấp hối mà không có cô. VĨNH HIỀN dịch (254/04-10)
|
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.