Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Nhà văn Hồ Phương tháng 8 năm 2015
Trong bài “Nhận đường” in trên tạp chí Văn nghệ - cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam số 1 tháng 3 năm 1948 xuất bản trên chiến khu Việt Bắc, ông viết tiếp: “Những ngày tháng Tám, chúng ta bước từ một thời đại lịch sử sang một thời đại mới. Hàng chục triệu con người, thức dậy những khoảng đêm đẫm máu, rỏ nước mắt khóc, vui sướng một niềm vui chưa bao giờ biết, ôm lấy nhau, quàng tay nhau dưới bóng cờ nước đi từng đoàn không thấy hết bên nước lụt đỏ ngầu, dưới mưa tầm tã trước mũi súng ngơ ngác của tụi phátxít Nhật. Cả dân tộc rung chuyển lên cùng một nhịp sống. Một tiếng súng nổ trong đường phố Sài Gòn vang động đến tất cả những thành phố, những xóm làng khắp nước. Mỗi người chúng ta không còn yếu ớt riêng rẽ. Chúng ta đã tìm lại thấy bao trùm trên chúng ta, bao trùm gia đình làng xóm chúng ta còn một cái gì lớn lao chung: ấy là dân tộc”.
Với những người làm văn nghệ, cuộc cách mạng ấy đến, biết bao nhiêu là bỡ ngỡ, dằn vặt, khó khăn giống như “một cuộc lột vỏ...da non mới mọc chưa lành, một cái gì chạm phải cũng nhỏ máu”. Nhưng cách mạng cũng lần đầu tiên chỉ ra cho họ thấy cái “còn một cái gì lớn lao chung: ấy là dân tộc”.
Tìm về dân tộc, trên hành trình ấy, nhiều văn nghệ sĩ sau đó, vào năm 1948 đã đầu quân. Lịch sử rồi sẽ còn ghi, những năm tháng sau cuộc “nhận đường” đầy vất vả đó, phong trào Văn nghệ sĩ đầu quân, tự nguyện theo tiếng gọi cứu nước của dân tộc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn ra với hàng trăm người thuộc đủ các lĩnh vực: văn, thơ, nhạc, họa, kiến trúc, sân khấu... đến từ khắp các miền quê Bắc, Trung, Nam...
Tôi có may mắn được sống cùng nhà thơ Thanh Tịnh mươi năm ở “phố nhà binh” (phố Lý Nam đế - Hà Nội) – một nhà thơ “tiền chiến” nổi tiếng có tên trong sách Thi nhân Việt Nam xuất bản từ năm1942; đồng thời cũng nổi tiếng với câu ca: Trải qua mấy chục năm trường/ Ăn cơ tập thể nằm giường cá nhân. Ông kể, năm 1945 ông tham gia Khởi nghĩa Tháng Tám ở Huế quê ông, tháng 11 cùng năm được bầu làm Trưởng ban Thư ký Hội văn hóa Cứu quốc Trung Bộ do nhà văn Hoài Thanh làm Chủ tịch. Năm 1946 ra Hà Nội dự Đại hội Văn hóa toàn quốc gặp đúng khi tiếng súng Toàn quốc Kháng chiến bùng nổ, không trở về Huế được. Ông bắt đầu thời kỳ xa quê, xa gia đình vợ con biền biệt; tham gia phong trào “Văn nghệ sĩ đầu quân”, phụ trách Đoàn kịch Chiến thắng của Bộ Tổng Tư lệnh, rồi tham gia Ban biên tập đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội thuộc TCCT. Trải “mấy chục năm trường”, kể từ Tết kháng chiến 1947 đến mùa xuân thống nhất đầu tiên 1975 ông không được ăn Tết với gia đình mà đón giao thừa cùng đồng đội với tiêu chuẩn một người lính độc thân nơi nhà ăn tập thể!... Chia sẻ với ông có người viết tặng hai câu thơ cổ Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (Trên con đường nhỏ và xa ngái, gió lạnh thổi dồn vào một người), còn Thanh Tịnh thì luôn bảo: có Cách mạng mới có Thanh Tịnh “Thơ ca” (tên tập thơ được Giải thưởng Nhà nước về văn học của ông) và: có Kháng chiến Thanh Tịnh mới “làm ra” môn độc tấu!
Tôi cũng có đôi lần may mắn được diện kiến cụ Nguyễn Tuân và từng nghe những chuyện vui về thời nhà văn đi theo cách mạng, kháng chiến. Chuyện thế này: mùa xuân năm 1948, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác nhà văn Nguyễn Tuân theo bộ đội lên Việt Bắc đánh giặc. Ông đi với Trung đoàn Thủ đô. Ông kể trong bài Buổi thi chính trị rằng, có một lần ông và nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ (tác giả Màu thời gian và vở kịch Ngã ba xuất bản từ trước Cách mạng Tháng Tám) được mời tham gia ban giám khảo một cuộc thi chính trị của bộ đội nhân kết thúc cuộc vận động “Luyện quân, lập công”. Ông viết về cảm nghĩ của mình lúc đó như sau: “Thật là một điều mới mẻ cho đời tôi! Một người vốn chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi nổi bên dòng liễu nhân và thích những vùng mây xa quá tầm với của tay mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế này mà nhất đám phải đứng trước chỗ ba quân, để đố thách những người quân nhân cách mạng! Mà lại đột ngột! Mà lại không được chuẩn bị từ trước! Ôi, Đại tướng ơi! Thật chỉ có Cách mạng thì mới có những việc như thế này!”
Và, ông đã chứng tỏ được “sự thân thiết giữa anh em cầm bút và anh em cầm súng”. Ông đã hỏi năm mươi anh em trong trung đoàn một câu. Mới đầu định hỏi: “Tại sao về chính trị, trung đoàn Thủ đô lại giỏi hơn các đơn vị khác?”, song nghĩ hỏi như vậy sẽ dễ gợi cái “ý đố kỵ sai lầm” không tốt nên trước khi ngồi vào cái ghế giám khảo cuộc thi vấn đáp chính trị ông đã đổi lại câu hỏi thành: “Tại sao anh em Trung đoàn Thủ đô lại không được phép thua những đơn vị khác về chính trị?”.
Chỉ đổi mỗi mấy từ “phải giỏi hơn” thành “không được phép”, câu hỏi thi của Nguyễn Tuân đã không chỉ “chính trị” hơn mà còn toát lên một tinh thần rất “quân sự” nữa. Mới hay với Nguyễn Tuân dù là khi nói hay lúc viết thì ngôn từ luôn luôn được ông tính toán đắn đo rất kỹ rồi mời dùng. Ông đúng là một nhà văn có “trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện” và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại như nhận xét của người đời sau.
Vào những ngày hàng triệu người yêu ca nhạc đau buồn về sự ra đi của nhạc sĩ tài năng Phan Huỳnh Điểu vừa qua, tôi lại mới được biết thêm: năm 1945, lúc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, chàng trai 21 tuổi Phan Huỳnh Điểu viết ra bài hát “Đoàn giải phóng quân” với những câu bất hủ: Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi /Nào có sá chi đâu ngày trở về /Ra đi ra đi bảo tồn sông núi /Ra đi ra đi thà chết không lui...Và sau đó trên những chặng đường đi cùng Cách mạng và Kháng chiến người nhạc sĩ ấy đẫ có hàng trăm nhạc phẩm, trong đó có những bài ca “đi cùng năm tháng”, đi cùng bộ đội suốt 70 năm qua như : Mùa đông binh sĩ, Nhớ ơn Hồ Chủ tịch. Ra tiền tuyến, Anh ở đầu sông em cuối sông, Bóng cây Kơnia, Hành khúc ngày và đêm, Cuộc đời vẫn đẹp sao...- những tác phẩm đã mang lại cho ông vinh dự cao quý Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật!
Nhớ về một thời trai trẻ, nhớ về mùa Thu tháng Tám chưa xa , sinh thời nhạc sĩ từng viết “đó là mùa thay lá, đơm hoa cho cả một non sông Tổ quốc. Mùa đổi đời cho hàng chục triệu con người”... và ông từng tự bạch, nếu không có mùa Thu ấy chắc sẽ không có một nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sau này mà “có thể là một anh thư ký quèn cho một hãng buôn nào đó. Hoặc là một anh thợ chữa máy không tên tuổi” ...
Và, trong những ngày mùa thu này, mùa thu tháng Tám năm 2015 tôi có dịp đến thăm nhà văn Hồ Phương một vị tướng. Không, ông bảo ông là một người lính. Ông tên thật là Nguyễn Thế Xương, tuổi con ngựa,1930; trưởng thành từ "chiến sĩ quyết tử" của Thủ đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng góc phố, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Ông cũng trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn Quân Tiên phong – đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội (Sư đoàn 308 Anh hùng)...Đến thăm gặp một người lính viết văn từ khi mới 17 tuổi, một nhà văn vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lại từng một thời là sếp của mình năm nay đã 86 tuổi, tôi cứ nghĩ chắc “cụ” đang ngồi buồn như mấy câu thơ chân dung vui mà cánh nhà văn nhà báo ở “phố nhà binh” ai cũng thuộc: Trên biển lớn mênh mông trời nước/ Ngó trông vềXóm mới tít mờ xa/ Cỏ non nay đã về già/ Ngồi buồn lại giở Thư nhà ra xem. Nhưng tôi đã lầm. Tướng Hồ Phương tuy đi lại có khó khăn tí teo, nhưng vẫn vui và hóm như ngày nào. Ông bảo, nhanh quá mới năm nào là cậu học sinh Hà Nội cùng bạn bè cầm cờ đi “xem” Việt Minh chiếm phủ Khâm sai mà nay đã 70 mùa Thu! Rồi ông “khoe” vừa được Bộ Công an vinh danh vì có những tác phẩm xuất sắc góp phần vào sự nghiệp “Vì an ninh Tổ quốc, vì bình yên cuộc sống”...Ông kể nhiều chuyện về tuổi trẻ Hà Nội một thời cách mạng, kháng chiến đầy nhiệt huyết song cũng vô cùng lãng mạn. Ông nói những câu thơ: Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/ Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng/ Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng / Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm / Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa trong bài “Ngày về” của Chính Hữu nói rất chính xá về những người lính trẻ Thủ đô lúc bấy giờ. Rồi ông tặng tôi cuốn sách còn thơm mùi mực – cuốn Hà Nội nơi xa và bảo trong ấy có tuổi trẻ của cả một lớp người một thời đi theo cách mạng...
Thập tam trại, tháng Tám mùa Thu 2015
Theo vanvn.net
1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).
Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.
Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.
Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.
"Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.
Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.
“Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.
Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.
Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.
Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.
Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.
Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.
Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.
Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.
5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.
Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.
Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...
Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.