Cách mạng và người nghệ sĩ

09:26 20/08/2015

Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

Nhà văn Hồ Phương tháng 8 năm 2015

Trong bài “Nhận đường” in trên tạp chí Văn nghệ - cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam số 1 tháng 3 năm 1948 xuất bản trên chiến khu Việt Bắc, ông viết tiếp: “Những ngày tháng Tám, chúng ta bước từ một thời đại lịch sử sang một thời đại mới. Hàng chục triệu con người, thức dậy những khoảng đêm đẫm máu, rỏ nước mắt khóc, vui sướng một niềm vui chưa bao giờ biết, ôm lấy nhau, quàng tay nhau dưới bóng cờ nước đi từng đoàn không thấy hết bên nước lụt đỏ ngầu, dưới mưa tầm tã trước mũi súng ngơ ngác của tụi phátxít Nhật. Cả dân tộc rung chuyển lên cùng một nhịp sống. Một tiếng súng nổ trong đường phố Sài Gòn vang động đến tất cả những thành phố, những xóm làng khắp nước. Mỗi người chúng ta không còn yếu ớt riêng rẽ. Chúng ta đã tìm lại thấy bao trùm trên chúng ta, bao trùm gia đình làng xóm chúng ta còn một cái gì lớn lao chung: ấy là dân tộc”.       

Với những người làm văn nghệ, cuộc cách mạng  ấy đến, biết bao nhiêu là bỡ ngỡ, dằn vặt, khó khăn giống như “một cuộc lột vỏ...da non mới mọc chưa lành, một cái gì chạm phải cũng nhỏ máu”. Nhưng cách mạng cũng lần đầu tiên chỉ ra cho họ thấy cái “còn một cái gì lớn lao chung: ấy là dân tộc”.      

Tìm về dân tộc, trên hành trình ấy, nhiều văn nghệ sĩ sau đó, vào năm 1948 đã đầu quân. Lịch sử rồi sẽ còn ghi, những năm tháng sau cuộc “nhận đường” đầy vất vả đó, phong trào Văn nghệ sĩ đầu quân, tự nguyện theo tiếng gọi cứu nước của dân tộc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn ra với hàng trăm người thuộc đủ các lĩnh vực: văn, thơ, nhạc, họa, kiến trúc, sân khấu... đến từ khắp các miền quê Bắc, Trung, Nam...      

Tôi có may mắn được sống cùng nhà thơ Thanh Tịnh mươi năm ở “phố nhà binh” (phố Lý Nam đế - Hà Nội) – một nhà thơ “tiền chiến” nổi tiếng có tên trong sách Thi nhân Việt Nam xuất bản từ năm1942; đồng thời cũng nổi tiếng với câu ca: Trải qua mấy chục năm trường/ Ăn cơ tập thể nằm giường cá nhân. Ông kể, năm 1945 ông tham gia Khởi nghĩa Tháng Tám ở Huế quê ông, tháng 11 cùng năm được bầu làm Trưởng ban Thư ký Hội văn hóa Cứu quốc Trung Bộ do nhà văn Hoài Thanh làm Chủ tịch. Năm 1946 ra Hà Nội dự Đại hội Văn hóa toàn quốc gặp đúng khi tiếng súng Toàn quốc Kháng chiến bùng nổ, không trở về Huế được. Ông bắt đầu thời kỳ xa quê, xa gia đình vợ con biền biệt; tham gia phong trào “Văn nghệ sĩ đầu quân”, phụ trách Đoàn kịch Chiến thắng của Bộ Tổng Tư lệnh, rồi tham gia Ban biên tập đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội thuộc TCCT. Trải “mấy chục năm trường”, kể từ Tết kháng chiến 1947 đến mùa xuân thống nhất đầu tiên 1975 ông không được ăn Tết với gia đình mà đón  giao thừa cùng đồng đội với tiêu chuẩn một người lính độc thân nơi nhà ăn tập thể!... Chia sẻ với ông có người viết tặng hai câu thơ cổ Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (Trên con đường nhỏ và xa ngái, gió lạnh thổi dồn vào một người), còn Thanh Tịnh thì luôn bảo: có Cách mạng mới có Thanh Tịnh “Thơ ca” (tên tập thơ được Giải thưởng Nhà nước về văn học của ông) và: có Kháng chiến Thanh Tịnh mới “làm ra” môn độc tấu!      

Tôi cũng có đôi lần may mắn được diện kiến cụ Nguyễn Tuân và từng nghe những chuyện vui về thời nhà văn đi theo cách mạng, kháng chiến. Chuyện thế này: mùa xuân năm 1948, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác nhà văn Nguyễn Tuân theo bộ đội lên Việt Bắc đánh giặc. Ông đi với Trung đoàn Thủ đô. Ông kể trong bài Buổi thi chính trị rằng, có một lần ông và nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ (tác giả Màu thời gian và vở kịch Ngã ba xuất bản từ trước Cách mạng Tháng Tám) được mời tham gia ban giám khảo một cuộc thi chính trị của bộ đội nhân kết thúc cuộc vận động “Luyện quân, lập công”. Ông viết về cảm nghĩ của mình lúc đó như sau: “Thật là một điều mới mẻ cho đời tôi! Một người vốn chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi nổi bên dòng liễu nhân và thích những vùng mây xa quá tầm với của tay mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế này mà nhất đám phải đứng trước chỗ ba quân, để đố thách những người quân nhân cách mạng! Mà lại đột ngột! Mà lại không được chuẩn bị từ trước! Ôi, Đại tướng ơi! Thật chỉ có Cách mạng thì mới có những việc như thế này!”

Và, ông đã chứng tỏ được “sự thân thiết giữa anh em cầm bút và anh em cầm súng”. Ông đã hỏi năm mươi anh em trong trung đoàn một câu. Mới đầu định hỏi: “Tại sao về chính trị, trung đoàn Thủ đô lại giỏi hơn các đơn vị khác?”, song nghĩ hỏi như vậy sẽ dễ gợi cái “ý đố kỵ sai lầm” không tốt nên trước khi ngồi vào cái ghế giám khảo cuộc thi vấn đáp chính trị ông đã đổi lại câu hỏi thành: “Tại sao anh em Trung đoàn Thủ đô lại không được phép thua những đơn vị khác về chính trị?”.

Chỉ đổi mỗi mấy từ “phải giỏi hơn” thành “không được phép”, câu hỏi thi của Nguyễn Tuân đã không chỉ “chính trị” hơn mà còn toát lên một tinh thần rất “quân sự” nữa. Mới hay với Nguyễn Tuân dù là khi nói hay lúc viết thì ngôn từ luôn luôn được ông tính toán đắn đo rất kỹ rồi mời dùng. Ông đúng là một nhà văn có “trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện” và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại như nhận xét của người đời sau.      

Vào những ngày hàng triệu người yêu ca nhạc đau buồn về sự ra đi của nhạc sĩ tài năng Phan Huỳnh Điểu vừa qua, tôi lại mới được  biết thêm: năm 1945, lúc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, chàng trai 21 tuổi Phan Huỳnh Điểu viết ra bài hát “Đoàn giải phóng quân” với những câu bất hủ: Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi /Nào có sá chi đâu ngày trở về /Ra đi ra đi bảo tồn sông núi /Ra đi ra đi thà chết không lui...Và sau đó trên những chặng đường đi cùng Cách mạng và Kháng chiến người nhạc sĩ ấy đẫ có hàng trăm nhạc phẩm, trong đó có những bài ca “đi cùng năm tháng”, đi cùng bộ đội suốt 70 năm qua như : Mùa đông binh sĩ, Nhớ ơn Hồ Chủ tịch. Ra tiền tuyến, Anh ở đầu sông em cuối sông, Bóng cây Kơnia, Hành khúc ngày và đêm, Cuộc đời vẫn đẹp sao...- những tác phẩm đã mang lại cho ông vinh dự cao quý Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật!     

Nhớ về một thời trai trẻ, nhớ về mùa Thu tháng Tám chưa xa , sinh thời nhạc sĩ từng viết “đó là mùa thay lá, đơm hoa cho cả một non sông Tổ quốc. Mùa đổi đời cho hàng chục triệu con người”... và ông từng tự bạch, nếu không có mùa Thu ấy chắc sẽ không có một nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sau này mà “có thể là một anh thư ký quèn cho một hãng buôn nào đó. Hoặc là một anh thợ chữa máy không tên  tuổi” ...     

 

Và, trong những ngày mùa thu này, mùa thu tháng Tám năm 2015 tôi có dịp đến thăm nhà văn Hồ Phương một vị tướng. Không, ông bảo ông là một người lính. Ông tên thật là Nguyễn Thế Xương, tuổi con ngựa,1930; trưởng thành từ  "chiến sĩ quyết tử" của Thủ đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng góc phố, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Ông cũng trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn Quân Tiên phong – đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội (Sư đoàn 308 Anh hùng)...Đến thăm gặp một người lính viết văn từ khi mới 17 tuổi, một nhà văn  vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lại từng một thời là sếp của mình  năm nay đã 86 tuổi, tôi cứ nghĩ chắc “cụ” đang ngồi buồn như mấy câu thơ chân dung vui mà cánh nhà văn nhà báo ở “phố nhà binh” ai cũng thuộc: Trên biển lớn mênh mông trời nước/ Ngó trông vềXóm mới tít mờ xa/ Cỏ non nay đã về già/ Ngồi buồn lại giở Thư nhà ra xem. Nhưng tôi đã lầm. Tướng Hồ Phương tuy đi lại có khó khăn tí teo, nhưng vẫn vui và hóm như ngày nào. Ông bảo, nhanh quá mới năm nào là cậu học sinh Hà Nội cùng bạn bè cầm cờ đi “xem” Việt Minh chiếm phủ Khâm sai mà nay đã 70 mùa Thu! Rồi ông “khoe” vừa được Bộ Công an vinh danh vì có những tác phẩm xuất sắc góp phần vào sự nghiệp “Vì an ninh Tổ quốc, vì bình yên cuộc sống”...Ông kể nhiều chuyện về tuổi trẻ Hà Nội một thời cách mạng, kháng chiến đầy nhiệt huyết song cũng vô cùng lãng mạn. Ông nói những câu thơ: Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/ Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng/ Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng / Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm / Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa trong bài “Ngày về” của Chính Hữu nói rất chính xá về những người lính trẻ Thủ đô lúc bấy giờ. Rồi ông tặng tôi cuốn sách còn thơm mùi mực – cuốn Hà Nội nơi xa và bảo trong ấy có tuổi trẻ của cả một lớp người một thời đi theo cách mạng...

Thập tam trại, tháng Tám mùa Thu 2015

Theo vanvn.net

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?

  • Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.

  • Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.

  • Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.

  • Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.

  • Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.

  • Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.

  • Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạcDưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.

  • NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam

  • Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.

  • “Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.

  • Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.

  • Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.

  • Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.

  • Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.

  • Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.

  • “ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.

  • Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.

  • Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.

  • Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.