Các thái giám trong Tử Cấm Thành

10:03 02/03/2012

PHAN THUẬN AN

Thái giám hay hoạn quan là những người đàn ông không có sinh thực khí, chuyên ở hầu hạ trong hậu cung của vua.
 

Thái giám trong cung vua triều Nguyễn - Ảnh: TL

Dưới thời quân chủ, phần lớn các vua đều có rất nhiều vợ. Trong hoàng cung thường có đến hàng chục, hàng trăm bà để phục vụ cho hoàng đế. Đám cung phi mỹ nữ đông đảo ấy phải được tổ chức và quản lý chặt chẽ. Triều đình tuyển các thái giám vào nội cung để làm công việc ấy và một số việc khác, ví dụ: sắp xếp việc "gặp gỡ" giữa vua với bà nào đó khi vua muốn, hoặc lo ghi chép ngày giờ vua "ngự dâm" cho đúng để tránh sự "lộn sòng" tai hại về sau.

Dưới triều Nguyễn cũng vậy, trong tam cung lục viện ở Đại Nội, thường có đến một vài chục quan hoạn để làm những công việc đó.

Ngay từ khi Nguyễn Ánh mới xưng vương ở Gia Định (1780), Lê Văn Duyệt (1763-1832) là người có tật "ẩn cung" như trên, cho nên đã từng được chọn làm thái giám ở nội đình.

Đến thời Minh Mạng (1820 - 1840), một phần vì ghét Lê Văn Duyệt trong một số vấn đề chính trị, một phần vì thấy trong lịch sử các triều đại trước đã có những thái giám lợi dụng địa vị ở trong hoàng cung và quyền năng ăn nói kiểu ton hót trong nội đình, từng gây ra nhiều chuyện không hay trong chính sự, cho nên, vào năm 1836, nhà vua đã ban hành một tờ dụ để hạn chế đến mức tối đa những tệ tập như thế. Theo tờ dụ này thì tất cả các thái giám bấy giờ được chia ra làm 5 hạng (ngũ đẳng), và mỗi hạng được hưởng tiền gạo hàng tháng khác nhau. Nhưng, họ chỉ được dùng để phục dịch trong hậu cung thôi, chứ tuyệt đối không cho dự vào quan chức gì của triều đình cả. "Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự tí nào, nếu kẻ nào vi phạm, quyết phải trừng trị nặng, không chút khoan tha. Trẫm đã ân cần tha thiết dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau. Về dụ nầy, chuẩn cho Quốc tử giám khắc vào đá"... (1)

Tấm bia đá khắc toàn văn bài dụ nghiêm khắc này, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn trong một bi đình tại Văn Thánh (Văn Miếu - Huế).

Tuy nhiên, cách đãi ngộ và các qui điều đối với thái giám như vậy, về sau có tu chính, bổ sung đôi chút qua các tờ dụ ban hành vào những năm 1887 (Thời Đồng Khánh), 1890 (thời Thành Thái) và 1912 (thời Duy Tân).

Theo nguyên tắc ấn định của triều đình, các thái giám ăn mặc một loại y phục riêng, trong đó, có chiếc áo dài bằng lụa màu xanh dệt cái hoa ở mảng trước ngực, và loại mũ họ đội cũng khác với các quan để dễ phân biệt (2).

Họ thường ăn ở, phục dịch trong Đại Nội, nhất là trong Tử Cấm Thành, nhưng cũng có một số lên phục vụ cho các bà cung phi góa bụa trên các lăng tẩm. Ngày trước, trong một lần lên thăm lăng Minh Mạng, cụ Vân Bình Tôn Thất Lương có tả cảnh sinh hoạt của các bà và các thái giám ở đó như sau:

Dâng hương đầu bạc bốn năm cô,
Quét lá áo xanh ba bn chú

Khi ốm đau hoặc già yếu thì các thái giám phải cư trú tại một tòa nhà ở ngoài góc phía Bắc của Hoàng Thành. Tòa nhà này gọi là Cung Giám viện (3). Họ phải ở đó để chữa bệnh hoặc chờ chết, chứ họ không bao giờ được chết trong Đại Nội hoặc trên các lăng tẩm, những nơi thiêng liêng chỉ dành cho hoàng gia.

Cũng cần phân biệt ra hai loại thái giám: "giám sanh" và "giám lặt". Giám sanh là những người khi mới sinh ra thì phi nam phi nữ, không có bộ phận sinh dục của đàn ông hoặc đàn bà; còn giám lặt là những người đàn ông tự nguyện thiến của quí của mình đi để được tuyển vào sống trong thế giới người đẹp bên cạnh vua.

Thời xưa, tại làng nào có "giám sanh" ra đời, thì cha mẹ phải đi trình làng để các cơ quan hữu trách trình lên Bộ.

Bộ sẽ cho nuôi nấng và dạy dỗ đứa trẻ theo nghi lễ trong cung, để khi nó lớn lên, thì đưa vào Nội làm thái giám.

Người ta gọi đứa trẻ ấy là ông "Bộ" thì được coi như là có phước, vì khi ông "Bộ" được cung tiến, thì làng đó được vua cho miễn thuế trong ba năm. Do đó, các bà nội trợ lúc bấy giờ, khi đi chợ gặp phải thực phẩm bán giá quá cao, thì hay nói: "Ăn mà đẻ ông Bộ cho làng nhờ"(4)…

Về mặt tâm sinh lý, nói chung, các thái giám đều có vóc dáng, bộ điệu, nét mặt, giọng nói và tính tình hơi khác với người bình thường.

Đã có một số trường hợp hai thái giám kết hôn với nhau làm vợ chồng. Làm như vậy, mặc dù không giải quyết được gì về mặt sinh lý, nhưng họ muốn có một người bạn trăm năm để chuyện trò, tâm sự, an ủi nhau, hầu xoa dịu phần nào cho nỗi cô đơn của đời mình, cũng có khi họ nuôi trẻ nít làm con nuôi để tạo cho họ niềm vui lúc sống, và để thờ phụng họ lúc chết.
 

Một góc khu nghĩa trang thái giám tại chùa Từ Hiếu - Ảnh: internet


Ngoài ra, ở Huế hiện nay còn tồn tại một ngôi chùa mà các nhà nghiên cứu Pháp trước đây gọi là "chùa Thái Giám" (Pagode des Eunuques). Nguyên xưa kia đó là ngôi chùa do nhà sư Nhật Định lập ra và đặt tên là chùa Từ Hiếu. Vào năm 1843, dưới thời Thiệu Trị, chùa đã được một thái giám tên là Châu Phước Năng đứng ra quyên góp tiền của để trùng tu (5). Đến năm 1893, một số thái giám của triều Thành Thái đã cùng nhau đóng góp tiền của để tu sửa lại một lần nữa (6). Các thái giám ấy đều biết rằng mình không có con cháu để thờ phụng hương khói khi đã nhắm mắt xuôi tay. Cho nên, họ cố gắng đóng góp "công đức" vào việc mở mang ngôi chùa, để sau khi chết, họ được mai táng và phục tự, cúng giỗ tại đây. Hiện nay, trong vườn chùa Từ Hiếu có gần 20 ngôi mộ của các thái giám triều Nguyễn. Ở mỗi lăng mộ như thế đều có một tấm bia đá ghi rõ tên họ và chức tước của từng người.

Chùa Từ Hiếu vừa là một danh lam vừa là một thắng cảnh của đất thần kinh. Khi đi thăm quan danh lam thắng cảnh này, du khách nên bước qua khu nghĩa địa bên phải vườn chùa để xem cho biết lăng mộ của các quan thái giám, một hạng người đặc biệt trong lịch sử thời quân chủ, lúc sống thì hết mình phục vụ quân vương, nhưng lúc chết thì lại nương thân nơi cửa Phật.

P.T.A.
(SH20/8-86)



------------------------
1. Đại Nam Thực Lục, bản dịch đã dẫn, Tập XVIII, Hà Nội, 1967, trang 38 - 39.
2. A. Laborde, Les Eunuques à la Cour de Huế, B.A.V.H. 1918, trang 110 - 111.
3. L. Cadière, La Citadelle de Huế: Onomastique, B.A.V H, 1983, trang 106.
4. Hoàng Trọng Thược, Tinh thần trào phúng trong thi ca xứ Huế, Sài Gòn, 1973, trang 120- 121.
5. Đại Nam Nhất Thống Chí, Thừa Thiên phủ bản dịch của Nguyễn Tạo, Tập thượng. Sài Gòn, 1961, trang 89.
6. A. Laborde, bài đã dẫn, trang 123.









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.