Ca khúc thời hào hùng

17:19 12/01/2009
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

“Ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gio
Đau lòng bao năm sống lầm than sương gió
Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm khe rừng
Còn vang khe suối tiếng quân oai hùng…”

Khởi nghĩa Bắc Sơn tạm thời thất bại, nhưng lực lượng dân quân được bảo vệ, được nuôi dưỡng để đến năm 1944 lại vũ trang tiếp tục chiến đấu.
Bài hát du kích Bắc Sơn chẳng biết từ đâu được bí mật đưa về Trị Thiên Huế và lớp học sinh các trường chép cho nhau vào sổ tay bí mật tập hát, hát một cách vô tư.
Tôi hình dung mảnh đất chiến địa Bắc Sơn, Lạng Sơn nơi quân du kích vừa đánh Nhật, băng đèo lội suối, vừa cất lên lời ca hào hùng.
“Dân quân du kích cách mạng bừng mùa thu…
Sao vàng bóng cờ bay trên chiến khu.
Bắc Sơn…
Bắc Sơn đây núi rừng chiến khu…”
Thời gian trôi nhanh, cách mạng phát triển khá nhanh. Trong khi đồng bằng và các đô thị đang bí mật chờ đón thời cơ thì các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang là của Việt Minh. Để rồi từ chiến khu các tỉnh này, các đơn vị vũ trang Giải phóng quân tiến về đồng bằng, tiến về Hà Nội. Mà như lời Bác Hồ căn dặn người chỉ huy các lực lượng vũ trang là đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Thời cơ lớn đã đến, dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng giành cho được độc lập”
Giải phóng quân, cứu quốc quân vâng lệnh Bác Hồ tiến về miền xuôi, lúc này chiến khu và các tỉnh biên giới là hậu phương an toàn. Đoàn quân ra đi bỏ lại chiến khu không nhớ sao được. Và ca khúc NHỚ CHIẾN KHU xuất hiện:
“Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo lắng suối reo ngàn thông reo
Đêm hôm nay vai vác súng trông mây bay gió buồn đứng. Nhớ núi rừng.
Ôi chiến khu đoàn chiến binh với chiến khu
Thân ta dù trong mưa nắng với sương mù   
Ơi chiến sĩ chàng đau thương có cứu thương.
Vết thương chàng có đau đớn em băng giùm
Chiều nay xa chiến khu trong lòng buồn…”
Hai ca khúc “Nhớ chiến khu” và “Du kích Bắc Sơn” mà tôi may mắn được biết là của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, được bí mật truyền cho nhau tại Huế, Quảng Trị trước ngày giành chính quyền Tháng Tám năm 1945. Thế rồi chẳng bao lâu được hát tự do khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
Giặc Pháp lại gây chiến ở Nam Bộ, bộ đội ta từ Bắc vô Trung làm một cuộc tiến và nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu có mặt ở Đà Nẵng, được chứng kiến cảnh chuyển quân máu thịt ấy đã có ngay ca khúc:
“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Lòng có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi mang hồn sông núi
Ra đi, ra đi thà chết chớ lui
Cờ bay phất phới kìa dòng Lạc Hồng
Đạn réo ta tới kìa dòng Lạc Hồng
Đoàn vệ quốc… quân…
Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi…”
Ca khúc là nhịp bước hành quân đi ra mặt trận được bộ đội ta hát ngày đêm trên những con tàu tiến, trên các làng quê, nơi ghi tên gia nhập bộ đội Vệ quốc đoàn. Và sôi nổi bậc nhất là trường học có nhiều thanh niên học sinh trong đêm lửa trại đầy phấn khích.
Chẳng bao lâu mặt trận Huế vỡ, cả Bình Trị Thiên khói lửa ngút trời. Quân dân ba tỉnh sát cánh bên nhau đánh giặc gìn giữ xóm làng mến thương.
Ca khúc “Bình Trị Thiên quê hương” xuất hiện:
“Bình Trị Thiên, bao năm lửa khói ngút trời nguyện giữ xóm làng mến thương.
Thôn làng xưa đêm đêm cán bộ đi về trong lúc gian nan đấu tranh đến cùng bom rền vang đau thương khi Tây khủng bố giết người càn quét đốt nhà dày xéo xóm làng đau thương.
Trong khó nguy quân và dân bền chí…
Hói Mít còn vang danh, Hà Thanh thù khiếp vía, đây Xuân Bồ mồ giặc Pháp khóc than…”
Ngoài ca khúc “Bình Trị Thiên quê hương”, hình như của một nhạc sĩ ở khu 4 vào. Còn có ca khúc “Bình Trị Thiên khói lửa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương rất đỗi bi hùng và quật cường:
“Hướng về , ai từng vô sông Hương, từng nương Thiên Mụ, từng ngụ Đập Đá Văn Xá, Truồi Nong…
Hướng về Nam, ai đã qua Đèo Ngang, đã sang Ba Rền bên dòng sông Gianh biết danh Luỹ Thầy giờ đây lửa cháy ngút trời, máu nhuộm đồng xanh… Hải Lăng đồng quê tan tác… đàn em xác chìm dòng sông…
Làng cháy cây héo khô
Đồng nương nồng hơi súng

Người đi lòng u uất sôi cháy máu căm thù trào dâng. Đồng bào ơi cùng Bình Trị Thiên đứng lên, đứng lên ta nguyện giết loài lang sói.

Bình Trị Thiên ơi miền thương mến, có ai xuôi về cho ta nhắn thương yêu…”
Bây giờ, bài hát này vẫn được nhiều ca sĩ thể hiện hết sức hào hứng. Và tác giả đã vinh hạnh nhận giải thưởng Hồ Chí Minh. Cùng với “Đêm đông”, “Bình Trị Thiên khói lửa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sẽ là những ca khúc còn lại với thời gian, với nền âm nhạc dân tộc và cách mạng.
Trên mảnh đất Bình Trị Thiên quật khởi và đau thương đan xen, ca khúc có một sức sống kỳ lạ. Các nhạc sĩ thời ấy vai súng vai đàn vào tận đồn địch đàn hát động viên dân quân bao vây đồn giặc, động viên dân công gánh gạo gánh đạn bom:
'Tây đồn Sư lỗ đói meo, ra một trung đội xúc heo bắt gà
Dân quân canh đồn gõ mõ từ xa: Trâu ra ơi đồng bào ơi…
Đồng bào kẻ gánh người gồng, con mô mẹ nấy quyết bỏ nhà không…
Tây đến ngang cồn, ba-rem ta quét đồn, rớt liền năm chú và một quan hai bay hồn về Tây.
A ha… đồng bào mừng vui đem nước tiếp mừng bộ đội.
Đồng lúa chín vàng mấy cô thôn nữ hát hò… là hát hò say sưa…”
Ca từ mộc mạc, nhưng toát lên thế chủ động của ta và niềm lạc quan của người dân. Kháng chiến nhất định thành công.
Bám sát cuộc sống kháng chiến, các nhạc sĩ Trần Hoàn, Hải Châu, Mặc Hy… đã có những ca khúc “Mùa lúa chín”, “Dân công tải đạn”… vừa ngộ nghĩnh vừa tha thiết của Trần Hoàn:
“Hò hát rằng: đường nào cát bằng con đường Đại Lược…
Dốc nào ngược bằng dốc núi Câu Nhi
Em đi mà trời tối không trăng, quàng cây rồi vấp đá, lại trách rằng anh đây không dặn dò.
Khoan hò khoan hỡi hò khoan… băng, băng, băng… băng nhanh cho chóng đến nơi, cho anh bộ đội no cơm đủ súng giệt trừ xâm lăng…”
Rồi ca khúc “LỜI NGƯỜI RA ĐI”… thật da diết và một quyết tâm theo cách mạng đến cùng của tác giả “Một chiều anh bước đi, em tiễn anh ra tận cuối làng, nghe dặn rằng còn kháng chiến còn trường kỳ là còn gian khổ em ơi… Máu còn rơi xương còn rơi bao lớp người tiền tuyến xông pha, ngăn quân thù giày xéo dân ta giành cuộc đời no ấm.
Như dòng sông qua đại dương băng qua rừng ghềnh đá cheo leo, mới đến ngày chiến thắng… Mà em nên nhớ rằng: còn kháng chiến còn trường kỳ là còn gian khổ…”.
Bên cạnh những ca khúc ca ngợi bộ đội chiến thắng như: “Hoan hô chiến sĩ Xuân Bồ, năm trăm giặc Pháp không mồ vùi thây…”, cũng có nhiều ca khúc nói lên sự hy sinh mất mát của nhân dân, tinh thần quật khởi lạc quan trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Các nhạc sĩ cũng sáng tác những ca khúc “địch vận”. Rất nhiều người lính lầm đường ấy khi nghe lời ca tiếng hát chí tình khuyên giải đã quay súng bắn vào đầu giặc, làm nội ứng cho quân ta diệt đồn, về với cách mạng:
“Trăng tà xế bóng qua sông… xê bên gối lạnh chạnh lòng nhớ thương. Anh đi cách ngả sai đường, tim em thổn thức canh trường vì anh. Thà rằng đã lỡ chia ly, anh ơi suy nghĩ mau đi mà về. Sang chi bên ấy anh hè, nỡ nào anh phụ lời thề năm xưa. Bên ni chiến luỹ chung một biên thùy, sang đây em đón chớ ngại ngùng chi. Anh ơi ôm súng quay đi mà về…”
Từ sau năm 1950, trên mặt trận Bình Trị Thiên, binh lính người Việt bỏ ngũ về với kháng chiến ngày càng nhiều, góp phần làm cho quân Pháp mau chóng sụp đổ. Trong công lao to lớn của toàn dân tộc, có sự đóng góp của giới nhạc sĩ, của các chị trong phong trào địch vận, đưa ca khúc cách mạng đến đồn địch mà hát. Nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã hy sinh bên đồn giặc.
Ca khúc thời kháng chiến chống Pháp ở Bình Trị Thiên nếu được tập hợp lại thì sẽ in được một tập dày dặn vô cùng ấn tượng, đó là ca khúc: THỜI HÀO HÙNG.
Thời ấy văn nghệ sĩ dấn thân vào máu lửa, trong khí thế hào hùng của dân tộc, thơ, văn, họa, nhạc bấy giờ chỉ có một mục đích: cùng với nhân dân giải phóng dân tộc.
Vì vậy năm tháng dù qua đi, các văn nghệ sĩ trong đó những nhạc sĩ quê hương như Nguyễn Văn Thương, Hải Châu, Trần Hoàn… đều lần lượt ra đi vì tuổi cao, trong đó có nhạc sĩ là liệt sĩ, hy sinh trên mặt trận, trên đường đi chiến dịch, và…; những ca khúc của các nhạc sĩ vẫn còn đọng lại hôm nay với những địa danh trên mảnh đất Bình Trị Thiên, sẽ còn vang lên trong lòng bao thế hệ Việt Nam.
Tôi muốn dừng bài viết tại đây. Song, không thể không đề cập đến một nhạc sĩ ngoài 80, sau một thời gian ở nước ngoài, nay về định cư tại Việt đó là Phạm Duy.
Nhạc sĩ Phạm Duy đến Ba Lòng Đá Nổi (chiến khu Quảng Trị) trong tháng 10 (hay 11) mưa đen trời năm 1948. Đoàn có 7 hay 8 người được bố trí ở trong ngôi nhà ngói duy nhất ở Đá Nổi, nhà của ông Tri Cang, ông có 2 con trai anh Chuộng và Cầu bằng tuổi tôi, ba cha con ở với nhau, còn bà thì mất lúc nào tôi không biết.
Phạm Duy cao ráo, đánh đàn guitar, nói giọng Bắc, đang tập cho mấy người trong đoàn hát bài “Bà mẹ GIO LINH” vừa mới sáng tác:
“Mẹ già cuốc đất trồng khoai nuôi con đánh giặc đêm ngày… cho dù áo rách sờn vai cơm ăn bát vơi bát đầy, nhà thời Tây đốt còn đâu (sau mới đổi còn mô) ta vui nói chuyện Bác Hồ. Mẹ mừng con giết nhiều Tây ra công cuốc vun cày cấy… hà hờ hơ ơ hờ… hà hờ ơ… hờ…”
Ngoài trời mưa lúc to lúc nhỏ, mưa cả ngày cả đêm. Mưa như sầu như thảm. Chúng tôi ra đi chỉ có cái nón, lấy tàu lá chuối, lá cọ che cho đỡ ướt. Chúng tôi đứng nghe há hốc mồm miệng như bị thôi miên.
Những con người ấy, tên tuổi ấy (văn công khu 4) vào tăng cường Bình Trị Thiên. Hát hò một hồi lâu, các anh nói với nhau: “Đói bụng, bây giờ mà có củ sắn lót dạ thì hay biết nhường nào”.
Các anh nói giọng Bắc, chúng tôi vừa cảm mến vừa ái mộ.
Hai anh em Chuộng và Cầu bảo: "Sắn thì nhiều, mưa làm sao đi nhổ". Tôi nhìn Cầu: "Ta đi!" Chúng tôi đi trong mưa, may nhờ trời mưa dài ngày, chỉ cần lắc lắc là nhổ được củ sắn ngon ơ.
Khi sắn chín rồi, đổ ra rổ với chén muối ớt, mọi người vui vẻ, và chính nhạc sĩ xoa đầu anh em. Tôi cười bảo: “Các mẹ, các em thiếu niên chiến khu tốt quá!” Có phải vậy không thưa nhạc sĩ Phạm Duy…?
Sau này tôi còn thuộc một bài hát của nhạc sĩ nữa là bài CHIỀU, và còn nhớ đến hôm nay.
“Chiều qua khi tôi qua vùng chiếm đóng, qua những cánh đồng khô cằn, qua những xóm làng tan hoang.
Chiều qua gánh nước cho Vệ quốc quân, có những o nghèo kể rằng: quân thù về làng đây đốt nhà….
Giặc đi bắt lính bắt người bắt phu, bắt dân đắp lũy xây đồn nặng nề, ôi lòng người dân ê chề. Chiều qua khi tôi qua vùng chiếm đóng; có những mẹ già đứng đợi đoàn quân trở về…
Bao giờ anh lấy được đồn Tây anh ơi để em cấy lúa như ngày… năm xưa
Bao giờ anh lấy được đồn Tây cho em đi cấy… như ngày… là ngày năm xưa…”
Bộ đội hát lên là căm thù, là lao vào đồn giặc. Cán bộ đi qua vùng tạm chiếm thấy mẹ già mà rơm rớm nước mắt. Bởi mẹ đang đợi chúng ta trở về kia mà, mẹ đang bị quân thù hành hạ, đất nước xóm làng đang bị quân thù giày xéo!
Chỉ hai ca khúc: BÀ MẸ GIO LINH và CHIỀU, nhạc sĩ Phạm Duy đã đi với kháng chiến, với nhân dân Bình Trị Thiên một chặng đường quá đẹp.
Rồi sau đó…
Có lần nhà thơ Hoàng Cầm bảo tôi là ông cùng tuổi với nhạc sĩ Phạm Duy, vậy là đã 86 rồi còn gì…
Còn tôi, em bé nhổ sắn năm ấy ở Đá Nổi đã 73 rồi. Nếu anh có đọc những dòng này trên tạp chí Sông Hương thì đó là kỷ niệm, phải không thưa nhạc sĩ Phạm Duy?...
Quảng Trị tháng 7-2008
N.L

(nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).