Bửu Chỉ - một hoạ sĩ tài danh của xứ Huế

15:22 27/08/2008
BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

Anh không chỉ vẽ tranh mà còn dấn thân quyết liệt cho phong trào phản chiến, yêu nước ở Huế và các đô thị miền khác.
Từng là Tổng Thư ký của Hội Sinh viên sáng tác Huế, anh đã bị chế độ cũ bắt đến 3 lần và lần cuối cùng đã bị giam 2 năm ở khám Chí Hoà cho đến tận ngày 30/4/1975 mới được giải thoát. Trong nhà tù anh đã bị cảnh sát chế độ cũ đánh đập tàn nhẫn, đặc biệt vì tức giận họ đã đánh vào hai bàn tay của họa sĩ vì hai bàn tay này đã dám vẽ những bức tranh tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà chế độ cũ hiếu chiến miền Nam không muốn nhìn thấy.
Trong nhà tù, tranh của anh vẫn được vẽ. Không một nhà tù nào, một sự đàn áp nào có thể dập tắt ý chí và ước vọng của một trái tim yêu nước và ước mơ tự do, nguyện vọng hoà bình.
Tranh của anh trong khoảng thời gian đó, thường được các báo chí nước ngoài in và gây một dư luận rộng rãi, được các phong trào phản chiến thế giới ở Mỹ, Nhật, Châu Âu, và ngay cả Thái Lan, Hàn Quốc nhiều khi lấy làm biểu trưng. Đặc biệt là các phong trào sinh viên yêu Hoà bình của thế giới.
Như một người nghệ sĩ có lương tri và như một công dân yêu nước, anh, Họa sĩ Bửu Chỉ đã góp viên gạch nhỏ bé nhưng thắm đượm tình yêu xứ sở và con người vào Hoà bình, Độc lập và Thống nhất Tổ quốc.
Anh còn là người hát rất hay với giọng Têno cao vút và hào hùng những ca khúc “Hát cho đồng bào tôi nghe” ở nhiều giảng đường sinh viên và ở các cuộc xuống đường. Anh có mặt cùng với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, các nhạc sĩ Tôn Thất Lập, La Hữu Vang, Miên Đức Thắng... hát và cổ vũ cho hào khí của sinh viên Đại học Huế trong cao trào đấu tranh yêu nước ở Huế và Sài Gòn vào những năm 1970-1972.
Tiến sĩ Huỳnh Bội Trâm (người gốc Đồng Nai) – một tiến sĩ Việt Kiều ở Úc, làm luận án Tiến sĩ về nghệ thuật Việt Nam, đã dành cho anh một vị trí trang trọng dù là trên một số dòng chữ rất ít ỏi trong luận án tiến sĩ của mình; đặc biệt trong phần “Nghệ thuật và chiến tranh”.
Ngày 17/3/2002 vừa qua, tranh phản chiến của hoạ sĩ Bửu Chỉ đã được triển lãm ở Viện Bảo tàng New Casttle, thuộc bang Sydney, Úc trong phần “Nghệ thuật và chiến tranh Việt Nam” cũng gây được tiếng vang trong dư luận nước ngoài.

Sau 1975 anh đã từng tham gia tích cực các hoạt động nghệ thuật xã hội, từng là Chủ tịch Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, uỷ viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá III. Anh thường vẽ bìa cho Tạp chí Sông Hương và những tranh minh hoạ cho tạp chí nầy.
Tạp chí Sông Hương số Festival vừa rồi đã in một phụ bản tuyệt đẹp của anh vẽ một con ngựa đá lưng nứt rạn, nhưng trổ hoa ngũ sắc, biểu tượng cho sự hồi sinh của Cố đô Huế – thành phố Festival trên trang bìa sau bức tranh của một hoạ sĩ tài danh khác: Hoạ sĩ Lê Bá Đảng.
Hơn 13 năm lại đây, anh đã âm thầm sống và vẽ để tìm một hướng đi mới, một cách thể hiện mới, một nhãn quan mới sâu thẳm đầy chất tâm linh về con người, cuộc đời.
Tranh của anh lúc nầy đầy vẻ đẹp, chất thơ, hoà quyện chất triết lý, được thể hiện qua các hình ảnh biểu tượng, pha lẫn một chút siêu thực. Khác với Trịnh Công Sơn thường sử dụng gam la thứ trong các ca khúc của mình để diễn tả nỗi u hoài ngậm ngùi của các cuộc tình và phận người, tranh Bửu Chỉ cùng thể hiện gần như là một tâm thức “sâu thẳm trong tâm tưởng về một số phận không thể nào cứu rỗi được trong định mệnh của mỗi con người” (Trịnh Công Sơn), anh thường dùng những gam màu nóng, rực rỡ, tương phản mạnh mẽ nhưng lại rất hài hoà và đẹp để diễn tả bao nhiêu điều mà ai thường chiêm nghiệm nhiều về cuộc sống nghệ thuật sẽ thú vị khi khám phá ra ý nghĩa.
Sử dụng màu sắc, đường nét, bố cục đạt đến sự điêu luyện bậc thầy, ý nghĩa tranh lại rất nhân văn, nên tranh của Bửu Chỉ thường rất được người hâm mộ nghệ thuật ở Việt Nam và thế giới ưa chuộng.
Anh đã từng triển lãm ở Pháp, Hồng Kông và đạt được sự thành công lớn.
Tranh của anh được một số Viện Bảo tàng Quốc tế mua, lưu giữ và trưng bày.
Đặc biệt là giới sưu tập và chơi tranh ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan thường lưu giữ tranh của anh trong các bộ sưu tập cá nhân như là một họa sĩ tài hoa của Việt Nam và Đông Á.
Lòng yêu mến cuộc sống thiết tha đến đắm say thường đi đôi với một nghịch lý về cái cảm quan vô thường của thiền gia, sự khắc khoải của con người trước thời gian vô thuỷ vô chung, khát vọng bình yên nhưng lại cảm thấy nó rất mong manh là những đề tài và chủ đề anh thường ưa thích diễn tả trong tranh... Anh thường đặt các hình tượng của mình trước cả một vũ trụ vô cùng này, nên các hình tượng của anh thường mang tính kỳ vĩ lạ thường.
Đặc biệt các hình tượng của anh thường độc đáo, khác lạ nên rất gây ấn tượng... Bên cạnh cách phối các màu nóng tương phản tạo ra một vẻ đẹp rực rỡ.
Một mình người chạy băng băng trên bề mặt của địa cầu, tay níu lấy chiếc đồng hồ thời gian với một sợi giây mong manh: đó là tên bức tranh “Níu kéo thời gian”.
Một con ngựa đá hiền lành, ngây ngô thân hình nứt rạn vì thời gian lại trổ ra những chùm hoa ngũ sắc rực rỡ. Con ngựa đá như mơ màng trước nhật nguyệt mang mang này được biểu tượng hoá bằng hai vòng tròn nhỏ đỏ và vàng. Đó là bức tranh “Ngựa đá và hoa”.
Một con chim bồ câu trắng muốt hiền hoà đậu trên một chiếc bình cổ với những hoa văn rất đẹp như hình núm vú của “mẹ hiền cuộc đời” được phối cảnh bên cạnh hai chiếc bình khác, mà chiếc ở giữa đã vỡ... Như cuộc đời có lúc toàn vẹn, có lúc trắc trở, như đời người có khi mơ ước rồi đổ vỡ, nhưng rồi lại mơ ước tiếp. Bởi vì con người trong thực chất tận cùng của nó là luôn mơ ước cho cái đẹp, cái thiện, lòng trắc ẩn. Và nhờ sự mơ ước đó mà nó tồn tại được. Đó là một trong những bức tranh tĩnh vật của anh.
Một con bồ câu trắng khác đậu trên một lưng ghế dưới đó là bốn ngọn đèn dầu, bóng đèn đã sạm khói, ánh lửa hiu hắt, nhưng vẫn ngóng tới một vầng mặt trời đỏ nhỏ nhoi để cảm thấy “mong manh và bình yên”, tên của một bức tranh khác của anh.
Anh cũng vẽ tranh khoả thân, nhưng tranh khoả thân của anh lại gợi nên một vẻ đẹp thánh thiện. Một cô gái rất đông phương khỏa thân ngồi mơ màng ôm hai chân của mình trong một đám bọt sóng lơ lửng trên biển, giữa trăng, sao, trời đất, mặt trời và mây. Đó là bức tranh “Ngày sinh thần Vệ nữ”.
Một bức tranh khác vẽ hình người như “Chúa bị đóng đinh trên Thánh giá” giữa mặt đồng hồ thời gian được đặt trong một hình quả trứng: Hình quả trứng này là biểu tượng bào thai hay quả đất và quả trứng ấy lơ lửng giữa nhật nguyệt vàng, đỏ giữa đất trời. Bức tranh đó có tên là “Sự sống và sự chết”. Có thể cắt nghĩa ra sao đây? Đó là tình yêu cuộc sống đam mê đến nỗi tuẫn nạn vì nó, hay là nỗi buồn vô vọng của con người vì thấy đời người quá hữu hạn và phù du so với sự vĩnh cửu của vũ trụ mà khát vọng thì quá lớn... Và cũng có thể có rất nhiều cách cắt nghĩa khác nữa...
Đặc biệt anh đã vẽ rất nhiều bức về một người bạn tâm giao Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Một cây đàn được đặt lơ lửng giữa trời đất, bên một đám mây trắng, và ở giữa thùng đàn là một khuôn mặt trầm tư, mơ mộng của Trịnh Công Sơn. Đó là bức tranh có tên “Trăng thiên cổ”.
Một bức khác, vẽ người họa sĩ đang đứng, mặt khắc khổ, thân hình như được đắp nổi gồ ghề bằng đá, tay cầm một đoá hồng nhỏ, cây đàn bên cạnh, trước một khung trời xanh thẳm và một mặt trời đỏ nhỏ nhoi. Bức tranh có tên là “Tuổi đá buồn”.
Một bức tranh khác, vẽ khuôn mặt nhạc sĩ đầy vết nứt rạn của thời gian và trầm tư, dưới đó là một cánh diều màu hồng với sợi dây nhỏ nhoi (biểu hiện cho bài hát “Em ơi đừng tuyệt vọng”), bên cạnh trên một góc bàn đá, một ly rượu thủy tinh cao đã cạn, một con chim nhỏ ngây thơ đang nhìn nhạc sĩ, dưới ly rượu là một đoá hồng lăn lóc... Một mặt trời đỏ nhỏ nhoi được bao quanh bồng bềnh một vầng xanh lơ. Gam màu chủ đạo của bức tranh là xanh lục thẫm, tương phản với màu hồng của cánh diều, màu đỏ của mặt trời, màu xanh lơ, và màu đen của tóc, của các vết nhăn của gương mặt, của da, màu đen của kính đeo mắt, màu hồng pha vàng và lục của bức tường.
Bức tranh đó có tên “Một cõi đi về”. Tên một bài hát nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Trịnh Công Sơn...
Hoạ sĩ Bửu Chỉ còn vẽ hàng loạt tranh thiền, “sắc sắc không không” với rất nhiều biến thái, mà ý nghĩa đa dạng và những gam màu chủ đạo khác nhau...

Hoạ sĩ Bửu Chỉ hiện nay đang sống gần như chỉ để vẽ, và vẽ bằng một nỗi đam mê mãnh liệt. Đó là ý nghĩa đích thực và duy nhất của đời anh. Khi có nhiệt hứng, anh vẽ một ngày đến 10, 12 tiếng và làm việc như gã tù khổ sai mà nhà tù là cái đẹp vĩnh hằng. Anh gần như đang chạy đua với thời gian vì sợ cuộc sống của mình quá ngắn ngủi.
Anh vẽ như quên tất cả mọi sự trên đời, chỉ còn duy nhất trong tâm trí một hình tượng độc đáo mới khám phá ra, một bố cục đã trực cảm một cách đắc ý, một gam màu chủ đạo đã được trực nhận...
Số tranh của anh cho đến hiện nay đã tới vài trăm bức đủ các chất liệu, nhưng chủ yếu là sơn dầu và rất đa dạng, đủ các đề tài.
Anh đang chuẩn bị cho một cuộc triển lãm tranh đồ sộ ở một Festival Huế sắp tới gần đây, khi Huế trở thành một thành phố Festival. Và “con ngựa đá” xa xưa của cố đô hoàng triều ấy lại nở những bông hoa dại ngũ sắc về cái đẹp, về nghệ thuật, về văn hóa để cống hiến cho Đời...
Trong Festival Huế 2002 này, anh cho ra mắt bộ bưu ảnh – tranh chọn lọc của anh, gần 10 bức, để góp phần nhỏ nhoi của mình cho công chúng và tiền tác quyền dành cho “Quỹ tài trợ sự phát triển Thơ Huế”. Một sự hiện diện rất khiêm tốn nhưng đầy nghĩa cử trong một Festival hoành tráng, lộng lẫy.
(Một ngày gần tàn mùa Festival Huế-2002)
Huế, 12/5/2002
T.H.P
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.