Bùi Giáng “chơi”

15:07 09/10/2013

LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.

Tập thơ "Mưa nguồn" của Bùi Giáng - Ảnh: internet

Tọa đàm có nhiều bài viết đáng chú ý như: Triết gia và thi sĩ của học giả Bùi Văn Nam Sơn; Bùi Giáng - thơ phơi giữa nắng của GS.TS. Huỳnh Như Phương; Bùi Giáng chơi của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu; Bản mệnh thơ Bùi Giáng của PGS.TS. Hồ Thế Hà; Bùi Giáng bản nhiên của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân; Bùi Giáng trong cái nhìn phê bình văn học củamiền Nam trước 1975 của TS. Trần Hoài Anh; Bùi Giáng - quê nhà và cuộc đời của nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển; Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại của nhà thơ Lê Minh Quốc; Bùi Giáng với kinh Phật thuyết đại thừa vô lượng thọ - trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác của Giao Hưởng. Bên cạnh là những bài viết nhiều phát hiện của Bùi Văn Ký, Phan Nguyễn Kiến Nam, Nguyễn Đức Chính, Trần Nữ Phượng Nhi, Phạm Phú Phong, Huỳnh Thị Thu Hậu, Tâm Nhiên, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Đình Trân…
Sông Hương sẽ giới thiệu một số bài biết quan trọng đó trong các số tạp chí tới đây. Dưới đây là bài viết của Nhật Chiêu được chuyển về tòa soạn trong ngày diễn ra Tọa đàm.
S.H

 

Ảnh: tienphong.vn



NHẬT CHIÊU

Con người và thơ ca Bùi Giáng dường như ăn nằm với một chữ “Chơi”.

Một cuộc chơi lu bù, bất tận, điên đảo, “tục tĩu mà thần tiên”.

Nói theo ngữ ngôn của ông là: trùng du điệp hí, anh nhi hí, đồng tử hí, trần gian du hí, thần thông du hí, ngày tháng ngao du, đùa với tuyết rỡn với vân, tót vời cuộc chơi, mở trận đùa rỡn từng cơn cơn cuộc cuộc, chơi theo lối nghịch hành, chơi trùng khơi trí hải…

Chơi thiên nhiên, chơi đời, chơi thơ, chơi huyền thoại, chơi kinh điển, chơi giai nhân, chơi hỗn độn, chơi thiêng liêng, chơi sáng tạo. Và chơi cái chết.

Thế giới đầy sáng tạo này là Vishnu Lila, trò chơi của Vishnu theo người Ấn Độ. Lila là chơi đùa, nhảy múa. Riêng cõi thơ này là Bùi Giáng Lila.

Đừng đọc thơ Bùi Giáng. Hãy chơi đùa và nhảy múa cùng thơ ấy.

Đó là thơ của Hồn du mục, thơ của Đời vui đón hội và thơ của Ngữ ngôn cuồng dại.

HỒN DU MỤC

Tập Mưa Nguồn là thơ của du tử, mục tử hiểu theo mọi nghĩa. Trang thơ mở đầu đã ngân lên hồn du mục:

Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em
 

Bùi Giáng vẽ Trịnh Công Sơn - Ảnh: internet

Bùi Giáng từng chăn dê chăn bò vào mấy năm cuối thập niên 40 vào cuối thế kỷ trước. Có thể thấy rõ việc làm đó cũng là trò chơi, đúng cốt cách Bùi Giáng.

Và chăc chắn nhà thơ mục tử xem chuyện chăn dắt ấy có hẳn một tư cách khác. Con người là mục tử chăn giữ “Tính thể”. Ý tưởng ấy Heidegger bày tỏ trong Thư về Nhân bản luận, một tác phẩm mà Bùi Giáng rất tán tụng.

Không chỉ cánh đồng của du mục là cánh đồng mà thân thể cũng là cánh đồng theo cách nói của Chí Tôn ca (Bhagavad Gita, khúc 13).

Trong lời tựa cho cuốn L’Anti - Oedipe của Deleuze, Foucault viết: “Hãy chuộng lấy những gì lạc quan và đa dạng, chuộng khác biệt hơn là đồng dạng, lưu lãng hơn là đóng khép, biến chuyển hơn là hệ thống. Hãy tin rằng những thành tựu không đến từ ngồi yên mà từ hồn du mục”(1).

Bùi Giáng đem phong cách du mục vào thơ ca, một phong cách tràn đầy tự do, ngang tàng, táo bạo, bất chấp, phụng dâng, tận hiến, tung hê, cuồng ngạo.

Mọi thứ trong thơ Bùi Giáng đều khác thường, lưu lãng, biến chuyển, đều trôi, bay, cuộn sóng, bão giông, quay cuồng, xô đẩy, ầm ào, lên đường, tách bến, ra khơi…

Từ đó mà:

Gót chân khơi rộng bóng cành…
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù
Trời đêm tinh tú chạy vòng…

Người xuống theo giòng trôi nước lũ
Người xuống theo thu gió thổi trời

Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Nguồn trôi nước lũ xuống đè cát xanh


Cái lưu lãng không chỉ nằm ở tứ mà còn nằm ngay trong ngữ âm:

Bờ thánh thót động giòng em đi đến
Làn lênh lang lau lách lại luân lưu…


Trong bài Tuổi Trẻ (Mưa Nguồn) nhà thơ không ngớt giục: “Chạy đi em!”, “Chạy đi em!”… Với người thương, không là ru ngủ như thường tình mà là giục chạy, có lạ không!

Không chỉ có người mới đi và chạy. Cả bản thân THƠ nữa, thơ cũng trôi:

Thơ còn có chảy dưới chân em?

Đó là thế giới của gió và nước, của phiêu du và chuyển hóa.

Nhưng cái đi đến một lúc nào đó lại trùng phục với cái về.

Nước đi ra bể lại MƯA về NGUỒN
                                    (Tản Đà)

Hồn du mục, hồn phiêu lưu cũng là hồn của về nguồn, hồi nguyên. Hồn của Ulysse, Từ Thức. Cội nguồn, ngõ ban sơ, cố quận, nguyên xuân…

Ra đi hẹn với xuân đầu
Buổi hồi nguyên lại pha màu bình minh

Thế cho nên Mưa nguồn mở đầu với hồn du mục và kết tập với:

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không Ta đi còn gửi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù

Như vậy là đivề được nối kết, xưasau được nối kết. Cũng thế, sốngchết được nối kết. Tất cả ở trong trò chơi bất tuyệt.

Cả cái chết cũng là trò chơi. Chơi cái chết. Đã chết rồi lại chết nữa. Chết thêm một trận:

Con bèn tái điệp dấn liều
Chết thêm một trận hoang liêu song trùng

Nếu hồn chỉ là tâm, thể chỉ là thân thì không thể chơi đùa như thế được. Nhưng với tâm thần phân lập (schizo) thì khác. “Schizo là vũ trụ của cơ chế dục vọng, có thể sản xuất và tái sản xuất”, theo Deleuze(2).

Do vậy mà có hai câu thơ độc đáo và phân lập trong Rong rêu:

Em đi như thể thân là thể
Anh ở một mình thể mất thân

Hoặc như:

Chúng tôi người ngợm vô thường
Lúc mê man lúc chán chường thể thân

Đùa rỡn hết mực, thơ Bùi Giáng trở thành một thứ NGHỊCH THƠ. Nghịch là đùa mà cũng là ngược. Thơ ấy có thể nghịch mắt trái tai với những người xem thơ ca nghệ thuật là trịnh trọng trang nghiêm.

Nhưng phải nhận ra gương mặt thơ của Bùi Giáng như một trò hài (farce).

Nhận xét về văn chương nghệ thuật hiện đại, Ortega trong tiểu luận Giải nhân hóa nghệ thuật (The Dehumanization of Art) cho rằng: “Nghệ thuật được nhận ra như một trò hài (farce)… là trò hài chính là sứ mệnh và đạo lý của nghệ thuật… mời gọi chúng ta nhìn tác phẩm như một trò đùa (a joke) tự chế nhạo mình trong yếu tính… Nghệ thuật mới tự lố bịch hóa mình” (Art… is recognized as a farce… to be a farce may be precisely the mission and the virtue of art… invite us to look at a piece of art that is a joke and that essentially makes fun of itself… The new art ridicules art itself)(3).

Những lời ấy Ortega viết từ năm 1925 ở Tây Ban Nha trong Giải nhân hóa nghệ thuật.

Đến năm 1971, ở Việt Nam, trong Ngày tháng ngao du, có thể là tình cờ Bùi Giáng cũng nêu lên “giọng nói lố bịch” trong triết học và thơ ca:

“Nietzsche thường có giọng nói lố bịch như thế. Lố bịch một cách khệ nệ khệnh khạng như Lão Tử. Hoặc như những ông thiền sư lố bịch ‘Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư’.

Thơ văn tôi làm cũng có lố bịch, nhưng lố bịch một cách thơ dại, khiến người đọc vui vẻ trường thọ…

Lố bịch như thế khiến cõi đời thơ mộng ra. Chúng ta không còn ngạc nhiên gì nữa, nếu thấy bao nhiêu hoàng hậu trong sử xanh đều yêu mến Bùi Giáng, và xa lánh Nietzsche, xa lánh Lão Tử, xa lánh những ông thiền sư”.

Có một trò chơi văn bản (text play) mà Bùi Giáng hết sức ưa vận dụng tạm gọi theo thể cách của ông là trùng phục thu hồi. Đó là cách mà thơ ông tiếp biến với văn chương kinh điển, đặc biệt là với Nguyễn Du, Kinh Phật và Camus. Thường là ông lặp lại (trùng phục) một ít ngữ ngôn hay ý cảnh của họ, từ đó khai lộ những khả tính mới hay hồi nguyên (thu hồi) cái ẩn mật giấu mình nơi đó.

Trùng phục thu hồi là dụng ngữ ông dịch từ Heidegger (nguyên văn tiếng Đức là Wiederholung) khi triết gia này đọc lại Kant.

Ta tạm lấy cụm từ Trùng phục thu hồi để chỉ một thủ pháp thường thấy trong thơ Bùi Giáng.

Trong bài lục bát Hoàng hậu, thử nhặt ra hai câu thơ quen thuộc:

Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua

Thơ Nguyễn Du luôn ám ảnh Bùi Giáng. Hơn một lần Bùi Giáng nhắc đến ngõ hạnh. Bắt đầu từ câu 2862 trong Truyện Kiều:

Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần

Ngõ hạnh viên
là nơi các tân khoa tiến sĩ dự yến, xem hoa, dạo chơi. Hạnh đàn là nơi dạy học, ca hát gảy đàn. Dương Quý Phi được gọi là Hạnh hoa thần

Bản thân Bùi Giáng có dịch bài tản văn Những cây hạnh (Les Amandiers) của Camus in trong Mùa hè sa mạc, trong đó có câu: “Một đêm duy nhất lạnh giá và thuần khiết tháng hai, những cây hạnh trong thung lũng Consuls sẽ đơm đầy bông trắng”. Điều này trùng hợp với những cây hạnh Á Đông, nơi tháng hai (âm lịch) là tháng hoa hạnh (Hạnh hoa phát vu lộ hàn: hoa hạnh nở trong sương lạnh).

Và chữ hạnh còn làm ta liên tưởng đến hạnh phúc, hạnh vận, hạnh ngộ…

Khi người tài tử đi qua cuộc đời thì phong tư tài mạo tuyệt vời của họ sẽ ngân dài trong khí quyển của những niềm vui hạnh ngộ, và những ngõ hạnh sẽ nở đầy hoa trắng bất tuyệt, và những mặt hạnh môi đào sẽ đón chờ đâu đó, mặc buốt giá lạnh sương.

Đó chính là đời vui đón hội.
 

Đinh Cường vẽ Bùi Giáng - Ảnh: internet


ĐỜI VUI ĐÓN HỘI

Giọng người đổ xuống bến xanh
Đời vui đón hội sao đành sớm tan


Thơ Bùi Giáng là lời tụng ca trần thế, tụng ca cuộc sống. Trước cõi đời và mặt đất, thơ ông dâng lễ mừng, dâng lời tạ ơn. Với ông, đời là hội, như hai câu lục bát trong Mưa nguồn kể trên. Ông gọi trần gian là lễ hội. Ông gọi thi sĩ xưa nay là những người trẩy hội trần gian:

“Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về mùa Xuân ca hót… chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…” (Đi vào Cõi Thơ).

Giả như Ta hỏi: Tại sao thế, thì có lẽ ông sẽ đáp rằng: “Vì đời là rất mực rất thiêng liêng” (trong bài Vì có lẽ).

Nhưng cái thiêng liêng ở Bùi Giáng không là cái gì cách biệt với cái phàm tục. Do vậy ông thản nhiên viết:

Mở hai hàng cỏ tháng ba
Lễ là Đi Tiểu hội là Vén Xiêm
            (Ngày tháng ngao du)

Có ai viết hoa Đi Tiểu và Vén Xiêm như Bùi Giáng không, xin chỉ cho tôi.

Chưa hết đâu, những người con gái của ông sẽ vén xiêm đi tiểu ở trên môt cõi Phật Quốc thiêng liêng và thanh tịnh:

“Lúc bấy giờ, tại ngưỡng cửa một non nước tinh khiết Chúng Hương, ‘những người con gái sẽ vén xiêm đi tiểu’…” (Ngày tháng ngao du).

Phải yêu trần gian thế nào mới làm ra những câu thơ phàm tục ấy? Bùi Giáng không báng bổ Phật Quốc hay Thiên quốc nào. Và quan trọng hơn là ông không bao giờ báng bổ trần gian:

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương

                                    (Mưa nguồn)

Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
                                    (Mưa nguồn)

Quả tim ấy tràn đầy lòng biết ơn đối với vạn vật, từ “kiến bé một con”… đến “cô em mọi nhỏ” và “mây nước rộng xanh trời”…

Dâng lễ mừng là dâng lời cảm tạ với nàng trần gian, với Nương tử thiên nhiên, là đáp đền thơ vì đã được sống trên đời.

Bùi Giáng xui ta nhớ đến Osho trong tác phẩm Cỗ bài Tarot trong linh hồn Thiền - Trò chơi Đời (Tarot in The Spirit of Zen - The Game of Life):

“Dâng lễ mừng là tràn đầy cảm tạ; đó là lời cầu nguyện xuất phát từ lòng biết ơn… được sống, chỉ vậy thôi đã là hội hè… để dâng lễ mừng, chỉ đời là cần - mà đời thì bạn có rồi. Để dâng lễ mừng, chỉ hiện hữu là cần - mà hiện hữu thì bạn đang có. Để dâng lễ mừng, cây lá, chóc chim và sao trời là cần, và chúng có sẵn đấy thôi. Bạn còn cần gì khác?”(4).

Chẳng những nhà thơ ca mừng đời, với tư cách mục tử, ông còn để cho đàn dê mình chăn dắt trên đường trở về ca mừng cuộc sống:

Rập ràng về bế hế rập ràng ca

Đọc thơ Bùi Giáng, khó mà quên tiếng bế hế rập ràng ấy của đàn dê hòa thanh với lời ca “thi dựng” của nhà thơ trong “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn”.


NGỮ NGÔN CUỒNG DẠI

Đọc Bùi Giáng như thể là đi lạc vào một thế giới hỗn độn, chập chờn. Thiên la địa võng của ngôn từ tuôn ra từng trận từng cơn, trùng trùng điệp điệp.

Câu thơ “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn” của chính Bùi Giáng trong Ngày tháng ngao du có thể dùng để miêu tả thế giới Bùi Giáng - đó là thế giới của người thật dắt tay người ảo. Các nhân danh địa danh nửa có nửa bịa. Các trích dẫn chương cú hư hư thực thực. Những đối thoại tưởng tượng (với Nguyễn Du, Nietzsche, Trang Tử, Simone Weil, với các “mẫu thân”, với chính mình, với cả châu chấu, chuồn chuồn) thì quá ư tiếu ngạo, trộn lẫn mọi thứ có thể và không thể…

Bùi Giáng tung ngọc vào bùn, chẳng cần quan tâm thị phi, khinh trọng.

Ông trộn nhã và tục trong nói lái, pha điên và tỉnh trong triết lý, lẫn giả và chân trong trò chơi văn bản, chen hay và dở những câu thơ.

Thế giới đó, dẫu sao đi nữa, là có một không hai.

Bùi Giáng hồn nhiên như trẻ con và tinh ranh như hồ ly, như khi con chồn nó lùi.

Còn ghì lại ân tình trong cỏ nhặt
Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn


Hai câu thơ đẹp chứ gì. Nhưng ai đó lại đọc lái chữ “cỏ nhặt”.

Lại câu thơ khác:

Vườn hoa nụ đứng nụ đằm…
 

Ảnh: internet

Đó là nói lái Bùi Giáng. Và bây giờ là nói đảo:

Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con

Câu thơ rất nổi tiếng, nhất là sau khi được phổ nhạc. “Người một con” là gì? Vẫn còn cãi nhau.

Đó có lẽ chỉ là cách nói đảo của “một con người”. Cách này Bùi Giáng vẫn hay chơi. Ví dụ:

Bây giờ em đếm đầu năm ngón
Lát nữa sương dầm tuyết sẽ pha

                                                (Ly Tao)

“Đầu năm ngón” tức là “năm đầu ngón”.

Tay năm ngón bốn mùa em đi đếm
                        (Biểu tượng sơ nguyên)

Tay năm ngón - Năm ngón tay.

Kiến bé một con
Bò trên cỏ dại

(Lá thổi như bay)

“Kiến bé một con” - Một con kiến bé.

Giản dị hơn là cách nói đảo của những từ thân thể và xương xẩu:

- Chán chường thể thân
- Kiệt tận xẩu xương
            (Lời người điên)

Đôi khi trích dẫn kinh văn, Bùi Giáng không buồn ghi xuất xứ. Đã thế còn tráo chữ, cưỡng từ đoạt ý. Chẳng hạn, trong Ngày tháng ngao du, ông dẫn kinh văn như sau:

“Lúc bấy giờ Trí Hải Ưu Bà Di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chân chu võng,… rủ tóc xanh ngần…”.

Ta có thể đoán biết ông đang dẫn kinh Hoa Nghiêm. Có điều trong kinh ấy không có Trí Hải Ưu Bà Di mà chỉ có Hưu Xả Ưu Bà Di.

Bùi Giáng cố tình đưa Thích Nữ Trí Hải (tức Phùng Khánh) vào kinh Hoa Nghiêm. Trong thơ văn của mình, ông liên tục nhắc đến mẫu thân Phùng Khánh, cũng như ca ngợi thần thông trí hải, trùng khơi trí hải.

Sau đoạn trích trên, ông còn điểm thêm câu “Chùa Vạn Hạnh nức nở reo mừng…”.

Và sau đó, ông thản nhiên trích dẫn kinh văn tiếp tục:

“Kẻ nào có dịp nhìn thấy vị Ưu Bà Di kia, lập thời mọi mọi phiền não liền được trừ diệt, rời xa mọi nhơ bợn kiến chấp, xô nhào mọi núi non chướng ngại, mà nhập vào cảnh giới vô ngại thanh tịnh… trở thành thy sĩ thượng thừa thù thắng trung niên…”.

Tất nhiên, Trung niên thy sĩ ở đây là Bùi Giáng.

Bùi Giáng ơi, Chơi như Ngài có ai đâu
Trùng khơi trí hải gieo mầu nhiệm thơ.


N.C
(SDB10/09-13)

--------------
(1) Dịch theo bản tiếng Anh: Anti-Oedipus, Nxb. Continuum, 2004, tr.XV.
(2) Anti-Oedipus, như trên, tr.5.
(3) The Dehumanization of Art, Ortega, Nxb. Doubleday, 1956, tr.44.
(4) Tarot in the Spirit of Zen - The Game of Life, Osho, St. Martin’s Griffin, 2003, tr.105.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.