LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.
Tập thơ "Mưa nguồn" của Bùi Giáng - Ảnh: internet
Tọa đàm có nhiều bài viết đáng chú ý như: Triết gia và thi sĩ của học giả Bùi Văn Nam Sơn; Bùi Giáng - thơ phơi giữa nắng của GS.TS. Huỳnh Như Phương; Bùi Giáng chơi của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu; Bản mệnh thơ Bùi Giáng của PGS.TS. Hồ Thế Hà; Bùi Giáng bản nhiên của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân; Bùi Giáng trong cái nhìn phê bình văn học củamiền Nam trước 1975 của TS. Trần Hoài Anh; Bùi Giáng - quê nhà và cuộc đời của nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển; Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại của nhà thơ Lê Minh Quốc; Bùi Giáng với kinh Phật thuyết đại thừa vô lượng thọ - trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác của Giao Hưởng. Bên cạnh là những bài viết nhiều phát hiện của Bùi Văn Ký, Phan Nguyễn Kiến Nam, Nguyễn Đức Chính, Trần Nữ Phượng Nhi, Phạm Phú Phong, Huỳnh Thị Thu Hậu, Tâm Nhiên, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Đình Trân…
Sông Hương sẽ giới thiệu một số bài biết quan trọng đó trong các số tạp chí tới đây. Dưới đây là bài viết của Nhật Chiêu được chuyển về tòa soạn trong ngày diễn ra Tọa đàm.
S.H
![]() |
Ảnh: tienphong.vn |
NHẬT CHIÊU
Con người và thơ ca Bùi Giáng dường như ăn nằm với một chữ “Chơi”.
Một cuộc chơi lu bù, bất tận, điên đảo, “tục tĩu mà thần tiên”.
Nói theo ngữ ngôn của ông là: trùng du điệp hí, anh nhi hí, đồng tử hí, trần gian du hí, thần thông du hí, ngày tháng ngao du, đùa với tuyết rỡn với vân, tót vời cuộc chơi, mở trận đùa rỡn từng cơn cơn cuộc cuộc, chơi theo lối nghịch hành, chơi trùng khơi trí hải…
Chơi thiên nhiên, chơi đời, chơi thơ, chơi huyền thoại, chơi kinh điển, chơi giai nhân, chơi hỗn độn, chơi thiêng liêng, chơi sáng tạo. Và chơi cái chết.
Thế giới đầy sáng tạo này là Vishnu Lila, trò chơi của Vishnu theo người Ấn Độ. Lila là chơi đùa, nhảy múa. Riêng cõi thơ này là Bùi Giáng Lila.
Đừng đọc thơ Bùi Giáng. Hãy chơi đùa và nhảy múa cùng thơ ấy.
Đó là thơ của Hồn du mục, thơ của Đời vui đón hội và thơ của Ngữ ngôn cuồng dại.
HỒN DU MỤC
Tập Mưa Nguồn là thơ của du tử, mục tử hiểu theo mọi nghĩa. Trang thơ mở đầu đã ngân lên hồn du mục:
Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em
|
Bùi Giáng vẽ Trịnh Công Sơn - Ảnh: internet |
Bùi Giáng từng chăn dê chăn bò vào mấy năm cuối thập niên 40 vào cuối thế kỷ trước. Có thể thấy rõ việc làm đó cũng là trò chơi, đúng cốt cách Bùi Giáng.
Và chăc chắn nhà thơ mục tử xem chuyện chăn dắt ấy có hẳn một tư cách khác. Con người là mục tử chăn giữ “Tính thể”. Ý tưởng ấy Heidegger bày tỏ trong Thư về Nhân bản luận, một tác phẩm mà Bùi Giáng rất tán tụng.
Không chỉ cánh đồng của du mục là cánh đồng mà thân thể cũng là cánh đồng theo cách nói của Chí Tôn ca (Bhagavad Gita, khúc 13).
Trong lời tựa cho cuốn L’Anti - Oedipe của Deleuze, Foucault viết: “Hãy chuộng lấy những gì lạc quan và đa dạng, chuộng khác biệt hơn là đồng dạng, lưu lãng hơn là đóng khép, biến chuyển hơn là hệ thống. Hãy tin rằng những thành tựu không đến từ ngồi yên mà từ hồn du mục”(1).
Bùi Giáng đem phong cách du mục vào thơ ca, một phong cách tràn đầy tự do, ngang tàng, táo bạo, bất chấp, phụng dâng, tận hiến, tung hê, cuồng ngạo.
Mọi thứ trong thơ Bùi Giáng đều khác thường, lưu lãng, biến chuyển, đều trôi, bay, cuộn sóng, bão giông, quay cuồng, xô đẩy, ầm ào, lên đường, tách bến, ra khơi…
Từ đó mà:
Gót chân khơi rộng bóng cành…
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù
Trời đêm tinh tú chạy vòng…
Người xuống theo giòng trôi nước lũ
Người xuống theo thu gió thổi trời
Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Nguồn trôi nước lũ xuống đè cát xanh
Cái lưu lãng không chỉ nằm ở tứ mà còn nằm ngay trong ngữ âm:
Bờ thánh thót động giòng em đi đến
Làn lênh lang lau lách lại luân lưu…
Trong bài Tuổi Trẻ (Mưa Nguồn) nhà thơ không ngớt giục: “Chạy đi em!”, “Chạy đi em!”… Với người thương, không là ru ngủ như thường tình mà là giục chạy, có lạ không!
Không chỉ có người mới đi và chạy. Cả bản thân THƠ nữa, thơ cũng trôi:
Thơ còn có chảy dưới chân em?
Đó là thế giới của gió và nước, của phiêu du và chuyển hóa.
Nhưng cái đi đến một lúc nào đó lại trùng phục với cái về.
Nước đi ra bể lại MƯA về NGUỒN
(Tản Đà)
Hồn du mục, hồn phiêu lưu cũng là hồn của về nguồn, hồi nguyên. Hồn của Ulysse, Từ Thức. Cội nguồn, ngõ ban sơ, cố quận, nguyên xuân…
Ra đi hẹn với xuân đầu
Buổi hồi nguyên lại pha màu bình minh
Thế cho nên Mưa nguồn mở đầu với hồn du mục và kết tập với:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không Ta đi còn gửi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Như vậy là đi và về được nối kết, xưa và sau được nối kết. Cũng thế, sống và chết được nối kết. Tất cả ở trong trò chơi bất tuyệt.
Cả cái chết cũng là trò chơi. Chơi cái chết. Đã chết rồi lại chết nữa. Chết thêm một trận:
Con bèn tái điệp dấn liều
Chết thêm một trận hoang liêu song trùng
Nếu hồn chỉ là tâm, thể chỉ là thân thì không thể chơi đùa như thế được. Nhưng với tâm thần phân lập (schizo) thì khác. “Schizo là vũ trụ của cơ chế dục vọng, có thể sản xuất và tái sản xuất”, theo Deleuze(2).
Do vậy mà có hai câu thơ độc đáo và phân lập trong Rong rêu:
Em đi như thể thân là thể
Anh ở một mình thể mất thân
Hoặc như:
Chúng tôi người ngợm vô thường
Lúc mê man lúc chán chường thể thân
Đùa rỡn hết mực, thơ Bùi Giáng trở thành một thứ NGHỊCH THƠ. Nghịch là đùa mà cũng là ngược. Thơ ấy có thể nghịch mắt trái tai với những người xem thơ ca nghệ thuật là trịnh trọng trang nghiêm.
Nhưng phải nhận ra gương mặt thơ của Bùi Giáng như một trò hài (farce).
Nhận xét về văn chương nghệ thuật hiện đại, Ortega trong tiểu luận Giải nhân hóa nghệ thuật (The Dehumanization of Art) cho rằng: “Nghệ thuật được nhận ra như một trò hài (farce)… là trò hài chính là sứ mệnh và đạo lý của nghệ thuật… mời gọi chúng ta nhìn tác phẩm như một trò đùa (a joke) tự chế nhạo mình trong yếu tính… Nghệ thuật mới tự lố bịch hóa mình” (Art… is recognized as a farce… to be a farce may be precisely the mission and the virtue of art… invite us to look at a piece of art that is a joke and that essentially makes fun of itself… The new art ridicules art itself)(3).
Những lời ấy Ortega viết từ năm 1925 ở Tây Ban Nha trong Giải nhân hóa nghệ thuật.
Đến năm 1971, ở Việt Nam, trong Ngày tháng ngao du, có thể là tình cờ Bùi Giáng cũng nêu lên “giọng nói lố bịch” trong triết học và thơ ca:
“Nietzsche thường có giọng nói lố bịch như thế. Lố bịch một cách khệ nệ khệnh khạng như Lão Tử. Hoặc như những ông thiền sư lố bịch ‘Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư’.
Thơ văn tôi làm cũng có lố bịch, nhưng lố bịch một cách thơ dại, khiến người đọc vui vẻ trường thọ…
Lố bịch như thế khiến cõi đời thơ mộng ra. Chúng ta không còn ngạc nhiên gì nữa, nếu thấy bao nhiêu hoàng hậu trong sử xanh đều yêu mến Bùi Giáng, và xa lánh Nietzsche, xa lánh Lão Tử, xa lánh những ông thiền sư”.
Có một trò chơi văn bản (text play) mà Bùi Giáng hết sức ưa vận dụng tạm gọi theo thể cách của ông là trùng phục thu hồi. Đó là cách mà thơ ông tiếp biến với văn chương kinh điển, đặc biệt là với Nguyễn Du, Kinh Phật và Camus. Thường là ông lặp lại (trùng phục) một ít ngữ ngôn hay ý cảnh của họ, từ đó khai lộ những khả tính mới hay hồi nguyên (thu hồi) cái ẩn mật giấu mình nơi đó.
Trùng phục thu hồi là dụng ngữ ông dịch từ Heidegger (nguyên văn tiếng Đức là Wiederholung) khi triết gia này đọc lại Kant.
Ta tạm lấy cụm từ Trùng phục thu hồi để chỉ một thủ pháp thường thấy trong thơ Bùi Giáng.
Trong bài lục bát Hoàng hậu, thử nhặt ra hai câu thơ quen thuộc:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Thơ Nguyễn Du luôn ám ảnh Bùi Giáng. Hơn một lần Bùi Giáng nhắc đến ngõ hạnh. Bắt đầu từ câu 2862 trong Truyện Kiều:
Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần
Ngõ hạnh viên là nơi các tân khoa tiến sĩ dự yến, xem hoa, dạo chơi. Hạnh đàn là nơi dạy học, ca hát gảy đàn. Dương Quý Phi được gọi là Hạnh hoa thần…
Bản thân Bùi Giáng có dịch bài tản văn Những cây hạnh (Les Amandiers) của Camus in trong Mùa hè sa mạc, trong đó có câu: “Một đêm duy nhất lạnh giá và thuần khiết tháng hai, những cây hạnh trong thung lũng Consuls sẽ đơm đầy bông trắng”. Điều này trùng hợp với những cây hạnh Á Đông, nơi tháng hai (âm lịch) là tháng hoa hạnh (Hạnh hoa phát vu lộ hàn: hoa hạnh nở trong sương lạnh).
Và chữ hạnh còn làm ta liên tưởng đến hạnh phúc, hạnh vận, hạnh ngộ…
Khi người tài tử đi qua cuộc đời thì phong tư tài mạo tuyệt vời của họ sẽ ngân dài trong khí quyển của những niềm vui hạnh ngộ, và những ngõ hạnh sẽ nở đầy hoa trắng bất tuyệt, và những mặt hạnh môi đào sẽ đón chờ đâu đó, mặc buốt giá lạnh sương.
Đó chính là đời vui đón hội.
![]() |
Đinh Cường vẽ Bùi Giáng - Ảnh: internet |
ĐỜI VUI ĐÓN HỘI
Giọng người đổ xuống bến xanh
Đời vui đón hội sao đành sớm tan
Thơ Bùi Giáng là lời tụng ca trần thế, tụng ca cuộc sống. Trước cõi đời và mặt đất, thơ ông dâng lễ mừng, dâng lời tạ ơn. Với ông, đời là hội, như hai câu lục bát trong Mưa nguồn kể trên. Ông gọi trần gian là lễ hội. Ông gọi thi sĩ xưa nay là những người trẩy hội trần gian:
“Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về mùa Xuân ca hót… chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…” (Đi vào Cõi Thơ).
Giả như Ta hỏi: Tại sao thế, thì có lẽ ông sẽ đáp rằng: “Vì đời là rất mực rất thiêng liêng” (trong bài Vì có lẽ).
Nhưng cái thiêng liêng ở Bùi Giáng không là cái gì cách biệt với cái phàm tục. Do vậy ông thản nhiên viết:
Mở hai hàng cỏ tháng ba
Lễ là Đi Tiểu hội là Vén Xiêm
(Ngày tháng ngao du)
Có ai viết hoa Đi Tiểu và Vén Xiêm như Bùi Giáng không, xin chỉ cho tôi.
Chưa hết đâu, những người con gái của ông sẽ vén xiêm đi tiểu ở trên môt cõi Phật Quốc thiêng liêng và thanh tịnh:
“Lúc bấy giờ, tại ngưỡng cửa một non nước tinh khiết Chúng Hương, ‘những người con gái sẽ vén xiêm đi tiểu’…” (Ngày tháng ngao du).
Phải yêu trần gian thế nào mới làm ra những câu thơ phàm tục ấy? Bùi Giáng không báng bổ Phật Quốc hay Thiên quốc nào. Và quan trọng hơn là ông không bao giờ báng bổ trần gian:
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(Mưa nguồn)
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
(Mưa nguồn)
Quả tim ấy tràn đầy lòng biết ơn đối với vạn vật, từ “kiến bé một con”… đến “cô em mọi nhỏ” và “mây nước rộng xanh trời”…
Dâng lễ mừng là dâng lời cảm tạ với nàng trần gian, với Nương tử thiên nhiên, là đáp đền thơ vì đã được sống trên đời.
Bùi Giáng xui ta nhớ đến Osho trong tác phẩm Cỗ bài Tarot trong linh hồn Thiền - Trò chơi Đời (Tarot in The Spirit of Zen - The Game of Life):
“Dâng lễ mừng là tràn đầy cảm tạ; đó là lời cầu nguyện xuất phát từ lòng biết ơn… được sống, chỉ vậy thôi đã là hội hè… để dâng lễ mừng, chỉ đời là cần - mà đời thì bạn có rồi. Để dâng lễ mừng, chỉ hiện hữu là cần - mà hiện hữu thì bạn đang có. Để dâng lễ mừng, cây lá, chóc chim và sao trời là cần, và chúng có sẵn đấy thôi. Bạn còn cần gì khác?”(4).
Chẳng những nhà thơ ca mừng đời, với tư cách mục tử, ông còn để cho đàn dê mình chăn dắt trên đường trở về ca mừng cuộc sống:
Rập ràng về bế hế rập ràng ca
Đọc thơ Bùi Giáng, khó mà quên tiếng bế hế rập ràng ấy của đàn dê hòa thanh với lời ca “thi dựng” của nhà thơ trong “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn”.
NGỮ NGÔN CUỒNG DẠI
Đọc Bùi Giáng như thể là đi lạc vào một thế giới hỗn độn, chập chờn. Thiên la địa võng của ngôn từ tuôn ra từng trận từng cơn, trùng trùng điệp điệp.
Câu thơ “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn” của chính Bùi Giáng trong Ngày tháng ngao du có thể dùng để miêu tả thế giới Bùi Giáng - đó là thế giới của người thật dắt tay người ảo. Các nhân danh địa danh nửa có nửa bịa. Các trích dẫn chương cú hư hư thực thực. Những đối thoại tưởng tượng (với Nguyễn Du, Nietzsche, Trang Tử, Simone Weil, với các “mẫu thân”, với chính mình, với cả châu chấu, chuồn chuồn) thì quá ư tiếu ngạo, trộn lẫn mọi thứ có thể và không thể…
Bùi Giáng tung ngọc vào bùn, chẳng cần quan tâm thị phi, khinh trọng.
Ông trộn nhã và tục trong nói lái, pha điên và tỉnh trong triết lý, lẫn giả và chân trong trò chơi văn bản, chen hay và dở những câu thơ.
Thế giới đó, dẫu sao đi nữa, là có một không hai.
Bùi Giáng hồn nhiên như trẻ con và tinh ranh như hồ ly, như khi con chồn nó lùi.
Còn ghì lại ân tình trong cỏ nhặt
Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn
Hai câu thơ đẹp chứ gì. Nhưng ai đó lại đọc lái chữ “cỏ nhặt”.
Lại câu thơ khác:
Vườn hoa nụ đứng nụ đằm…
![]() |
Ảnh: internet |
Đó là nói lái Bùi Giáng. Và bây giờ là nói đảo:
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Câu thơ rất nổi tiếng, nhất là sau khi được phổ nhạc. “Người một con” là gì? Vẫn còn cãi nhau.
Đó có lẽ chỉ là cách nói đảo của “một con người”. Cách này Bùi Giáng vẫn hay chơi. Ví dụ:
Bây giờ em đếm đầu năm ngón
Lát nữa sương dầm tuyết sẽ pha
(Ly Tao)
“Đầu năm ngón” tức là “năm đầu ngón”.
Tay năm ngón bốn mùa em đi đếm
(Biểu tượng sơ nguyên)
Tay năm ngón - Năm ngón tay.
Kiến bé một con
Bò trên cỏ dại
(Lá thổi như bay)
“Kiến bé một con” - Một con kiến bé.
Giản dị hơn là cách nói đảo của những từ thân thể và xương xẩu:
- Chán chường thể thân
- Kiệt tận xẩu xương
(Lời người điên)
Đôi khi trích dẫn kinh văn, Bùi Giáng không buồn ghi xuất xứ. Đã thế còn tráo chữ, cưỡng từ đoạt ý. Chẳng hạn, trong Ngày tháng ngao du, ông dẫn kinh văn như sau:
“Lúc bấy giờ Trí Hải Ưu Bà Di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chân chu võng,… rủ tóc xanh ngần…”.
Ta có thể đoán biết ông đang dẫn kinh Hoa Nghiêm. Có điều trong kinh ấy không có Trí Hải Ưu Bà Di mà chỉ có Hưu Xả Ưu Bà Di.
Bùi Giáng cố tình đưa Thích Nữ Trí Hải (tức Phùng Khánh) vào kinh Hoa Nghiêm. Trong thơ văn của mình, ông liên tục nhắc đến mẫu thân Phùng Khánh, cũng như ca ngợi thần thông trí hải, trùng khơi trí hải.
Sau đoạn trích trên, ông còn điểm thêm câu “Chùa Vạn Hạnh nức nở reo mừng…”.
Và sau đó, ông thản nhiên trích dẫn kinh văn tiếp tục:
“Kẻ nào có dịp nhìn thấy vị Ưu Bà Di kia, lập thời mọi mọi phiền não liền được trừ diệt, rời xa mọi nhơ bợn kiến chấp, xô nhào mọi núi non chướng ngại, mà nhập vào cảnh giới vô ngại thanh tịnh… trở thành thy sĩ thượng thừa thù thắng trung niên…”.
Tất nhiên, Trung niên thy sĩ ở đây là Bùi Giáng.
Bùi Giáng ơi, Chơi như Ngài có ai đâu
Trùng khơi trí hải gieo mầu nhiệm thơ.
N.C
(SDB10/09-13)
--------------
(1) Dịch theo bản tiếng Anh: Anti-Oedipus, Nxb. Continuum, 2004, tr.XV.
(2) Anti-Oedipus, như trên, tr.5.
(3) The Dehumanization of Art, Ortega, Nxb. Doubleday, 1956, tr.44.
(4) Tarot in the Spirit of Zen - The Game of Life, Osho, St. Martin’s Griffin, 2003, tr.105.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.