TRẦN BĂNG KHUÊ
1. Gã có thói quen mỗi buổi sáng thức dậy, gã thường tợp một ngụm Tequila và nhìn chăm chăm vào bức tường. Sau đó mới rời khỏi nhà, đến công sở. Nơi nào gã đến cũng có một bức tường tương tự như thế. Chỉ thiếu mỗi Tequila. Những bức tường xuất hiện ở khắp mọi nơi. Chỉ Tequila là không thể. Gã phải đến quán rượu. Ghé quầy bar của lão họa sĩ già.
Minh họa: Lê Minh Phong
Gã đã cố suy nghĩ xem, tại sao, người ta dựng nó lên thành các loại hình dạng. Vuông, chữ nhật, tam giác, và rồi tự nhốt chặt chính mình vào trong đó. Hoặc là, họ quá khờ khạo. Hoặc là, họ quá u mê. Hoặc là, họ chẳng thể nào đủ dũng cảm đập bỏ nó đi. Bạn gã đến nhà, nhìn thấy bức tường quái đản ấy, chỉ cười trừ, rồi lầm bầm trong cổ họng những âm vực trầm đục như tiếng của địa ngục vượt thoát lên từ lỗ hổng nào đó trên mặt đất: “một tấm gương không cần soi vẫn có thể thấy được những hình thù của quá khứ và tương lai”. Gã cần gì tương lai? Gã muốn biết cái thứ hiện tại này có thể khiến gã hài lòng hay chưa? Những bức tường, chúng thật sự rất chập chờn, đầy mộng tưởng huyễn hoặc đối với cư dân ở xứ sở này. Gã nghĩ vậy. Họ cũng chẳng khác gì gã. Họ chỉ là những con trâu ngoan ngoãn lầm lụi đi theo những luống cày từ lúc mặt trời lên đến khi tối mịt.
2. Quán rượu của lão họa sĩ già cũng có những bức tường. Chúng được quết một màu xám xịt như tro than. Mỗi lần bước chân đến quán, sau khi nốc một cốc Tequila, gã bắt đầu lảm nhảm về thứ gì đó không thể thoát ra khỏi cổ họng. Nhưng, lão họa sĩ vẫn nghe được: “những mặt phẳng tù đọng”. Những mặt phẳng, gã thừa biết, nó tồn tại sừng sững như một sự hiển nhiên, một sự thách thức lì lợm, từ lâu lắm rồi. Gã không thể làm gì được. Phải, cũng chẳng ai dám làm gì, bởi trong tay họ không một tấc sắt. Rõ ràng, khi người ta muốn đập bỏ thứ gì đó, ít nhất họ phải có vật dụng cứng hơn. Ai chẳng hiểu điều ấy. Gã chỉ là một gã đàn ông, tay không tấc sắt.
Hôm qua, khó khăn lắm gã mới lặng lẽ mở cửa bước chân ra khỏi nhà. Gã tính sẽ đi tìm một vài thứ cứng hơn bức tường. Chẳng hạn, những thanh sắt, hoặc chiếc búa tạ. Chúng có thể giúp gã đập bỏ những bức tường đó. Gã đến quán rượu quen thuộc. Gã ngồi xuống chiếc ghế cao của quầy bar. Gã gọi Tequila. Và hỏi lão họa sĩ già về một thanh sắt. Lão ậm ừ mân mê chai rượu, rót thêm một cốc nữa. Gã nốc hết. Rồi, tiếp tục lẩm bẩm hỏi. Vẫn là về thanh sắt hoặc chiếc búa tạ. Lão rền rền giọng: “lại Tequila chứ?”. Vừa nói, lão vừa rót tiếp ra một cốc khác. Lão uống. Tequila nóng bừng, cháy từng ngụm trong cổ họng gã. Như ai đó đổ một lốc thuốc độc đang tan rữa dần đến dạ dày. Men rượu xộc lên mũi. Gã không nghe mùi Tequila. Bất giác, gã nhớ cái mùi hương cafe. Chúng thơm nghẹn con đường trẻ dại ngày xưa mỗi lần gã đạp xe đi về. Bây giờ, gã chỉ ngồi tưởng tượng về nó như một khối hình hài không đầu không cuối, không định lượng được chiều thời gian đi tới hay lùi. Gã nhớ đứa con gái mắt cười lúng liếng, tóc dài ngang lưng đã từng thề nguyền cùng gã. Nàng rời xa gã chưa bao lâu thì phải. Khoảng cách chỉ là một chiều thời gian. Gã biết, những chiều thời gian chưa bao giờ chết.
Những bức tường màu xám. Bất cứ điểm đến nào, ánh mắt gã cũng chỉ xoáy vào những bức tường màu xám. Tequila là thứ dư vị khiến gã cảm thấy có một chút hứng thú, mộng mơ. Hóa ra, gã đã từng nhảy những giai điệu mamboo trong cơn cuồng say của thời trai trẻ. Một cốc Tequila biến gã thành một người đàn ông đầy tràn tình yêu và sức sống. Hai cốc Tequila, ba cốc Tequila, gã chết chìm trong những bức tường màu xám. Gã vẫn ngồi trong một quán rượu nhỏ, nơi chỉ có những bức tường màu xám vây quanh mình.
Vài nơi khác, gã đến, những bức tường không giống với quán Tequila hoặc ở nhà gã. Chúng lồ lộ tô trét đủ loại màu sắc lòe loẹt. Gã nghĩ có lẽ nó chỉ đang cố tình lừa đảo nhãn quang hời hợt của kẻ khác. Nhưng, với gã, tất cả chúng đều là màu xám. Tất cả những ẩn giấu đều nhân danh màu xám. Sự thật ở bên trong vài hình khối cơ bản mà người ta cố tình tạc dựng nên. Hoặc vốn dĩ nó đã nằm phía sau những bức tường màu xám. Chẳng hạn như tối nay, tại quán rượu này, gã đã nhìn thấy nó qua thứ ánh sáng mờ ảo của những bóng điện hình trái ớt. Bức tường lập lòe. Bức tường nhảy nhót. Bức tường say mèm men rượu Tequila.
Tối nay, gã không uống Tequila. Gã gọi bia. Chúng nhạt thếch. Không đủ chếnh choáng. Choang. Một tiếng vỡ rơi xuống nền nhà. Lão họa sĩ già cười hềnh hệch, cầm chai Tequila chỉ còn vài giọt dưới đáy lên tu nốt. Sau đó, lão ném về phía bức tường màu xám. Những âm thanh rơi xuống nền nhà. Vỡ. Bức tường bết thêm màu vàng chanh của Tequila. Gã hoa mắt. Gã nhìn thấy cái thứ chết chóc linh nghiệm từ nhiều thế hệ đang quét lên bức tường màu xám của mình, như một vận mệnh hoặc sự ám ảnh nào đó từ trong tiềm thức quen thuộc.
Gã lảo đảo đứng dậy, rời khỏi quán. Đêm lảo đảo trong cơn giông rạch xé ngang trời, dù rằng vẫn có sao và trăng. Lẽ dĩ nhiên, gã chẳng thể nào tìm được một thanh sắt, hay một chiếc búa tạ để mang về. Gã cần phải đập bỏ bức tường ở nhà gã. Chúng vẫn lõa lồ chờ đợi gã mỗi đêm. Hoặc quét qua mắt gã sự phản chiếu bởi mặt trời buổi sáng tràn vào những ô cửa kính. Nhàm chán. Ý thức của gã cũng chỉ là một bức tường bị phong kín. Chúng được tạo nên từ máu và những sợi neuron thần kinh. Bức tường này, cũng đang cần được cứu rỗi, cần bị phá bỏ. Gã không cần biết lí do. Gã chỉ thấy rằng, nó cần được phá bỏ. Dù sao, điều đó giúp gã quên đi những ám ảnh từ bức tường trong tâm tưởng. Chúng đã tồn tại lâu quá rồi. Nhưng, gã vẫn chỉ là một thằng đàn ông tay không tấc sắt.
3. Sáng nay, gã không ra khỏi nhà. Gã nghỉ việc. Dù là ngày đầu tuần. Dù sếp của gã là một mụ đàn bà mắt hí, môi dày, đầu rất to, chỉ biết gào thét, rất hay nhìn đồng hồ, và chăm chăm theo dõi các nhân viên qua chiếc camera mới lắp. Gã không ghét bỏ gì cái con người ấy. Gã chỉ thấy buồn, thấy hài hước mai mỉa thay, xung quanh gã còn bao nhiêu kẻ bị những bức tường như thế ngăn cách và ràng buộc hàng ngày hàng giờ bởi một vài chiêu trò ủy mị kém cỏi? Gã đã cố tình nghỉ việc. Gã sợ gì sự ghét bỏ, dập vùi của kẻ khác. Gã sợ gì mụ đàn bà ấy. Gã từng hỏi bà ta về một cái chày bằng sắt. À, gã hỏi vu vơ. Và bà ta, dĩ nhiên cũng ngu ngơ nhìn gã chằm chằm như người từ hành tinh khác xuống. Gã không định giết người bằng cái chày sắt. Gã muốn đập bỏ bức tường trong phòng làm việc của gã. Kể cả những chiếc bàn giấy, chúng chiếm hết phần lớn không gian và được kê sát tường.
Gã chưa bao giờ cảm thấy mình nên dành một yêu mến nào đó với những người đàn bà. Thi thoảng, gã nhíu mày khi nghĩ đến vợ. Nàng cũng là một người đàn bà, người đàn bà đang ở trong những bức tường cùng gã. Vậy mà, từ khi cưới nàng về, gã chỉ là một bức tường màu xám lạnh lẽo đối với nàng. Cuộc sống của gã và nàng nằm trong một vòng tròn khép kín, đơn điệu, nhàm chán. Buổi sáng, nàng đưa con gái đi học. Chiều gã đón về. Công việc được chia đều theo lịch ngày và tuần. Thời gian ở nhà, gã với nàng mỗi người một góc, như hai cái bóng quay lưng lại với nhau. Nàng không nói. Gã không mở miệng. Mối quan tâm chung của gã và nàng là đứa bé ba tuổi hồn nhiên líu lo kể chuyện về những gì diễn ra nơi ngôi trường của nó mỗi ngày.
Những ngày cuối tuần, nàng và con về ngoại. Gã thường làm vài việc khá kì quặc. Gã sơn lên bức tường đó một màu đỏ quạch như phù sa châu thổ. Chán, gã lại đợi đến cuối tuần, vợ con đi khỏi, tiếp tục đổi màu bằng cách tẩy xóa nó đi. Màu sắc có thể gây nên sự phấn chấn và kích động khối não bắt nó phải làm việc, phải sáng tạo, phải tìm đường. Gã vẫn thường mơ về những thanh sắt. Chúng có thể đập vỡ bức tường của gã. Vài lần, vợ gã cũng để ý đến bức tường ấy. Nàng không nói một tiếng nào. Nàng xem đấy là thứ trò chơi kì dị của chồng. Nàng tôn trọng điều đó. Gã thầm biết ơn nàng. Nhưng, giữa nàng và gã vẫn có một khoảng cách rất lớn.
Con gái gã bốn tuổi. Gã với nàng vẫn cách nhau một bức tường trong căn hộ thuê. Con gái gã khá xinh và ngoan. Nó giống mẹ. Chỉ có gã, chẳng giống ai. Ngày gã ra đời, những người đến thăm đều thì thào với mẹ: “nó chả giống ai”. Mẹ gã khóc ướt gối mỗi lần bà nội chì chiết: “nó chả giống ai”. Gã vào tuổi dậy thì, bà vẫn bảo: “nó chả giống ai”. Gã chẳng thể nào hiểu nổi. Bố gã nghiện rượu Tequila. Những lần bố uống say khướt, bò lết về nhà, và lải nhải với mẹ bằng những thanh âm lên men mà gã nghe thấy: “nó chả giống ai?”. Gã nhốt mình trong phòng. Gã tạo ra một bức tường kín mà không một kẻ nào có thể bước chân qua được.
Gã chẳng thể giống ai. Rõ ràng là thế. Khuôn mặt này, từ đâu đến, gã phân vân đi tìm câu trả lời mòn mỏi gần như nửa đời.
4. Gã quyết định rời xa nàng một thời gian, để tìm cách xóa bỏ những bức tường màu xám. Gã chuyển công tác. Nơi gã đến là một thành phố khá trầm, buồn. Sếp của gã cũng không phải là một mụ đàn bà sồn sồn mắt hí và môi dày, suốt buổi nhòm đồng hồ, lấm lét liếc dọc liếc ngang nhìn ngó vào chiếc camera để xem nhân viên của mình có trốn công sở hay chăng? Gã cảm thấy một chút hưng phấn nơi mảnh đất này. Có điều, những bức tường vẫn dựng lên trước mặt gã hàng ngày. Chúng mỗi lúc một cao ngất, đến mức ngập mặt gã. Đẩy gã chúi xuống tận cùng, khiến gã trở nên nhỏ bé như một lũ kiến.
Gã nghĩ về người đàn ông độc thân. Cái thời gã nhiều mộng mê nhất, nhiều lí tưởng nhất. Cái thời gã ngây thơ hát vang những lời nhảm nhí trên giảng đường. Gã nghĩ về bức tường trong căn phòng của gã. Gã nhớ quán rượu Tequila của lão họa sĩ già.
Gã ít liên lạc với vợ, nhưng vẫn gọi điện đều đặn cho con gái. Cô bé kể về bức tường, kể về một vài thứ sắc màu mới mẻ, kể về một người đàn ông già thường xuyên đến nhà. Gã im lặng, như bức tường màu xám của gã vậy. Gã nghĩ, có lẽ cũng đã đến lúc phải đập vỡ nó. Gã muốn biết phía sau là thứ gì? Tâm hồn màu xám hay những ẩn ức giấu kín? Gã không thể hèn nhát mãi được. Bản năng của con người như những đợt sóng ngầm. Chúng chỉ giả vờ hiền lành, lặng lẽ và đợi chờ thời điểm để hóa thành cơn bão lớn, cuốn trôi tất thảy xuống đáy sâu vĩnh viễn.
5. Mùa hè. Gã về thăm con gái. Sau đó sẽ là quán rượu Tequila. Vợ gã đã sơn lại bức tường. Chúng có màu vàng chanh. Như màu Tequila. Bất giác, gã thấy lòng mình dịu lại một chút. Cái màu vàng chanh khiến gã hào hứng với thứ cảm xúc khác lạ đang chảy tràn đâu đó. Gã hỏi con gái về một người đàn ông. Vợ gã im lặng. Gã nhìn thấy những bức tranh mới mẻ hình như vừa được treo lên tường. Bức vẽ chai Tequila và một cái cốc đập vào mắt gã. Trong chai Tequila là một bức tường màu xám xịt. Gã vẫn chỉ là một thằng đàn ông tay không tấc sắt. Nhưng, gã đã biết cách để đập vỡ những bức tường. Chúng sẽ hóa thành tro bụi sớm thôi.
Gã đến quán rượu của lão họa sĩ già. Gã hỏi về bức tranh vẽ chai rượu Tequila. Lão rót một cốc đưa gã và nói: “Cậu nên đập bỏ chúng, sau khi uống nốt giọt cuối cùng”. Hóa ra, lão ấy biết gã muốn gì. Hóa ra, trong chai Tequila của lão là bức tường màu xám mà gã mong muốn được đập vỡ nó.
Gã vẫn biết ơn nàng. Người vợ buồn khổ đáng thương của gã. Nhưng, lúc này, gã sẽ làm cái công việc ấy. Thay vì, đi tìm một thanh sắt, gã sẽ nhốt một bức tường vào chai Tequila và ném xuống sàn nhà.
T.B.K
(SH317/07-15)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.