NGUYỄN VĂN TOAN
Tôi bắt đầu viết nhật ký khi vừa qua một đêm. Cuốn sổ của tôi, chép lại những giấc mơ sau mỗi giấc ngủ ám ảnh. Tôi bắt đầu làm việc này sau khi giải mã được giấc mơ cứ lặp đi lặp. Giấc mơ mà ông lão tôi đã vẽ ông luôn hiện về.
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
Ông lão đang ngồi trước mặt tôi. Chậm rãi và tỉ mỉ, ông thưởng thức bữa trưa của mình. Khi ăn, mọi u uất vẫn hiển hiện trên mặt ông biến mất. Ông lão không cao lắm, trán ông không dô nhưng hai lưỡng quyền nhô ra một cách quả quyết. Khuôn mặt pha chút khắc khổ và châm biếm. Ông nhai thức ăn kỹ càng, nhìn cơ mặt ông chuyển động có thể thấy ông chẳng tỏ ra vội vàng bao giờ. Chai bia ông uống xong có tác động tức thì, hai gò má ửng lên da mặt ông sáng hơn lúc bình thường. Tôi nhấp ngụm bia cuối chờ ông ăn xong.
- Nào tớ chưa điếc nhưng cậu nên nói đủ để một lão già nghe thủng cậu muốn gì chứ. - Ông lão nói vậy khi tôi lí nhí nói về nguyện vọng của mình.
- Cháu muốn vẽ ông khỏa thân.
- Được thôi. Địa điểm thì ngay nhà tớ đi, tớ chỉ tự tin trần truồng khi ở đấy thôi. - ông đáp lời sau một lúc suy nghĩ - Tớ sẽ không lấy tiền công, đổi lại cậu sẽ đọc sách cho tớ. - Ông lão nói tiếp.
Vợ mất, ông lão sống một mình dù con cháu đầy đủ. Ông lão từng là giảng viên đại học nhưng bây giờ đã tái mù chữ, chắc hẳn đó là lý do ông đòi trả công theo cách ấy. Tôi gặp ông lão lần đầu khi đang ngồi một mình trên ghế đá công viên.
Tôi nảy ra ý vẽ ông lão ngay từ lần gặp đầu tiên ấy. Là một sinh viên mỹ thuật tỉnh lẻ, tôi sống trong ký túc xá. Ký túc trường nghệ thuật nên có khá nhiều giai thoại bi hài gắn với những câu chuyện ma rùng rợn. Có không ít sinh viên chỉ ở được hai ba tuần lại chuyển ra ngoài, dù tiền phòng bên ngoài và ký túc khác nhau một trời một vực. Phòng tôi có năm người cả tôi, hai anh học khóa trên với những mái tóc buộc túm đầy chất nghệ sĩ và hai gã cùng lớp. Hai anh khóa trên chỉ coi căn phòng ken đặc giường tầng bằng sắt này là nơi ngả lưng mỗi tối, ban ngày họ biệt tích với những hợp đồng chép tranh khắp thành phố. Còn lại tôi và hai sinh viên năm ba thường xuyên ở phòng, sự im lặng mà nguyên nhân do chúng tôi không hợp tính nhiều hơn là vì chúng tôi quá bận cho sáng tạo của mình bao phủ căn phòng bừa bộn. Chúng tôi đã chán chuyện nhắc thằng này phải bỏ rác đúng chỗ, thằng kia vẽ vời không để vây màu ra tường, nền nhà, thế nên căn phòng bừa bộn và đã bắt đầu bốc mùi khó chịu. Chỉ hai tháng đầu, tôi thường xuyên có mặt ở phòng, còn những ngày về sau tôi càng thích được ra khỏi “cái hộp” như tôi vẫn gọi sau này. Tất nhiên ngoài những giờ lên lớp và những buổi nghe thuyết giảng về các trường phái và sự tiến bộ của hội họa, tôi một là lang thang trên những con phố rợp bóng xà cừ, ít hàng rong nhất để tìm cảm hứng, hai là tôi sẽ vào những công viên có hồ nước đề ngồi hưởng thụ những giây phút mát mẻ. Hôm tôi gặp ông lão là một buổi sớm đầu năm. Tâm trạng hôm đó khá tồi tệ. Tôi ngồi một đầu ghế đá trong góc khuất nhất công viên và nhìn ngắm những tàng cây đang im lặng. Những bức vẽ phong cảnh thiên nhiên của tôi không được như ý và đương nhiên nếu một thứ mà mình không hài lòng thì đừng mong mấy ông thầy nghĩ khác về nó. Đang chán nản nghĩ về sự sáng tạo và sao chép thì ông lão đi đến rồi ngồi ở đầu ghế còn lại. Khuôn mặt và sự im lặng của ông lão khiến tôi muốn rời khỏi chiếc ghế ngay bởi vì chẳng muốn mình phải thu nạp thêm một bầu tâm sự thê lương nào nữa. Nhưng ông lão đã chứng minh ngay từ đầu là một người hay chuyện khi ông giữ chân tôi lại bằng một câu hỏi.
- Cháu này, có quen biết một ai ngủ mà không mơ không?
Bị bất ngờ vì câu hỏi, tôi mất một lúc để hiểu ông lão muốn gì và cũng từ đấy tôi mới nhớ ra đã từ rất lâu tôi không còn quan tâm tới mơ màng mỗi khi thức giấc. Tôi bất chợt nhớ Diễm, nàng cũng đã từng hỏi tôi một câu y hệt. Đó là khi chúng tôi ngồi cùng nhau cạnh bờ rào của trường cấp ba sau buổi tiệc chia tay cuối cấp. Diễm dựa vào vai tôi và hát những đoạn các bài hát mà nàng có thể nhớ và vẫn hay hát. Tôi lặng im nghe nàng trong lòng không hoàn toàn nghĩ về một thứ gì cụ thể cũng chẳng chú tâm đến ca từ mà Diễm hát. Rồi Diễm ngưng hát và chuyển sang nói những câu chuyện không đầu không cuối. Sau cùng tôi không thể nhớ nổi vì lý do gì nàng lại hỏi tôi anh có hay nhớ lại giấc mơ của mình mỗi buổi sáng thức dậy không?
Tôi đáp rằng chưa bao giờ tôi làm vậy cả. Nàng nói rằng em thì sáng nào cũng phải ngồi nhớ lại hết những giấc mơ của mình, vì mẹ em bảo nếu không làm vậy chuyện xảy ra trong mơ sẽ thành sự thật. Bằng một giọng châm chọc tôi nhắc nàng rằng nếu có những giấc mơ đẹp mà trở thành sự thật thì càng tốt chứ sao. Diễm nói không phải mọi giấc mơ đều đẹp. Rồi nàng lại gục đầu vào vai tôi và nói:
- Sáng nay em đã phải ngồi một lúc mới nhớ được gần hết giấc mơ đêm qua. Em mơ thấy chúng mình cùng lên thành phố học, rồi mình lạc nhau giữa những nhà cửa san sát và nhung nhúc người.
Tôi nói chẳng tin vào mơ mộng làm gì. Và cuối cùng chúng tôi xa nhau thật. Diễm một nơi và tôi một nơi, đã sáu tháng chúng tôi không liên lạc gì.
Tôi nhìn ông cụ trước mặt mình, ngơ ngác với câu hỏi của ông.
- Đã rất lâu tớ ngủ mà chẳng mộng mị gì cả. Tám mươi ba tuổi không mất ngủ bao giờ nhưng đã hơn ba chục năm không có lấy một giấc mơ, thế đấy ngủ thẳng cẳng đến sáng.
- Ba mươi năm không mơ?
- Phải thế mới là vấn đề chứ. - Ông già nói với vẻ mặt u sầu.
Không ít người rơi vào trường hợp như ông lão, cũng có người mong được như thế vì theo khoa học ngủ không mộng mị mới là giấc ngủ sâu và ngon nhất. Nhưng quả thật nếu một người hơn ba mươi năm trời không có lấy một ít mộng mị thì cũng đáng ngại.
- Đều đặn mỗi sáng thức dậy việc đầu tiên tớ làm là ngồi và cố nhớ xem mình có mơ gì không nhưng chẳng có gì.
Tôi nói những điều chắp vá trong các trang sách khoa học về giấc mơ từng đọc được với ông và mong sẽ an ủi ông lão phần nào. Ông cụ nghe tôi nói một cách lơ đãng. Thế rồi những cử động trên khuôn mặt, các nếp nhăn, khóe miệng héo và đôi mắt ngầu đục của ông khiến tôi ngay lúc này muốn cầm cọ vẽ ghi lại tất cả. Một cú điểm huyệt như trong phim chưởng và tôi tha hồ cầm cọ lưu lại với tư thế và hơn hết khuôn mặt và những biểu cảm của nó được giữ nguyên.
Ý nghĩ muốn được vẽ ông cứ theo tôi mãi từ buổi gặp hôm ấy, và nó khiến tôi sau đó một tuần liền ra ngồi đúng cái ghế đó để được gặp lại ông. Phải đến ngày thứ bảy ông mới xuất hiện. Đó cũng là lúc tôi định bỏ cuộc, sau khi tự trách mình đã nghe câu chuyên ông lão một cách hời hợt và không bắt quen hỏi tên tuổi địa chỉ ông. Việc tự dằn vặt mình lặp đi lặp lại ấy cuối cùng cũng lại khiến tôi nhớ đến Diễm. Tôi và nàng đã bên nhau suốt sáu năm và những tháng đầu đại học chúng tôi vẫn bên nhau, cho đến khi Diễm nói với tôi gia đình không đủ điều kiện chu cấp cho học phí cũng như chi tiêu của nàng ở thành phố và nàng phải về quê. Ông lão thình lình xuất hiện phá đi những hồi tưởng về miền quê heo hút và Diễm.
Ông lão sống một mình trong căn nhà bé nhỏ lọt thỏm giữa các căn hộ cao tầng không khác gì bao diêm xếp cạnh các hộp các tông. Trong ngôi nhà chật hẹp của ông lão có một bức tranh, một bể cá cảnh, ba kệ sách và một phản gỗ.
Bức tranh treo ngay trên tường sát với ghế mà ông lão hay ngồi. Lúc tôi bước vào con trâu đen sì trong bức tranh gần như muốn lao ra khỏi toan vẽ húc vào tôi. Tôi bị nó thu hút đến mức ông lão phải lên tiếng.
- Nào nào cu Thốn! - Sau những lời của ông lão con vật dịu đi nhưng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt hằn học. Nó, - ông lão nhìn con vật trong tranh chìu mến và nói tiếp - là con rể tôi vẽ tặng đấy, chỉ tiếc anh ấy mất rồi nếu không khả dĩ còn là con người.
Bể cá của ông chỉ có một con rùa, là loại rùa tai đỏ. Con vật này đã lớn cực độ của nó, với mai xanh rì và hai viền đỏ ở hai bên đầu như có thể phát sáng. Tôi nghĩ con vật già phải ngang cỡ ông tuổi ông. Nhưng ông lão nói chỉ mới mang nó về nuôi khi người ta giết giống loài của chúng để cứu cụ rùa huyền thoại.
Từ khi thả vào bể này tôi chẳng phải cho nó ăn gì cả mà vẫn lớn lên và sống đến bây giờ thế mới lạ. Nào cậu xem qua nơi chúng ta sẽ làm việc chứ. - ông lão nói và đứng lên.
Ba kệ sách trong phòng bên trong đều bằng gỗ tốt. Hai ghế ngồi được kê sát với ô cửa sổ bé bằng hai bàn tay. Đích xác đây là một thư viện thu nhỏ. Tôi lật mở cuốn sách đầu tiên trên giá. Tội ác và trừng phạt của Dos, bìa cứng giấy thượng hạng và đặc biệt có chữ ký của tác giả. Tôi mở những cuốn khác cũng vậy chúng đều có chữ ký, của Gabriel García Márquez, của Harper Lee… bằng cách nào đó, dường như đều đã đến căn phòng này và ngồi vào một trong hai chiếc ghế kia để ký tặng vào những cuốn sách của ông lão. Tôi nhìn ông lão nhỏ bé đó với một sự kính nể xen lẫn dò xét.
- Đừng ngạc nhiên về những chữ ký đó. - “Khi người nào muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ chung sức lại để người đó đạt được điều mơ ước”. Tôi đang dở đúng trang có dòng này trong cuốn Nhà giả kim thì ông nói câu đó.
Ông để mặc tôi với những cuốn sách, thong thả đi vào cuối phòng. Ở đấy ông ngả mình trên một tấm phản bóng loáng bằng gỗ nghiến. Thứ này không phải hiếm ở những miền rừng nhưng thực sự giữa đất thủ đô này mà thấy nó cũng đáng ngạc nhiên chẳng kém những chữ ký kia.
- Tớ nằm trên tấm phản này là hợp nhất đấy hỉ.
Tôi nhìn ông lão nằm chống tay tạo dáng trên phản gỗ. Căn phòng với một cửa sổ bé hút những luồn ánh sáng yếu ớt vào trong, tĩnh mịch và trong lành. Tất cả độ sáng tối cần thiết cho một bức tranh với một nhân vật chính kỳ dị đã hiện ra trước mắt tôi. Giờ thì chỉ cần vẽ nữa là xong.
- Tớ đã ngủ trên tấm phản này ba mươi năm mà không mộng mị gì sất. - Ông nói trước khi tiễn tôi về với bức tranh chưa ráo nước.
Trong giấc ngủ chập chờn tôi mơ thấy Diễm, nàng vẫn đẹp và khỏe mạnh một cách cuốn hút. Tôi chạy đuổi theo nàng trên một cánh đồng nhấp nhô của miền bán sơn địa, khung cảnh xung quanh chúng tôi là một màu xám của những cánh đồng đã thu gặt xong, những ao chuông một nửa bao phủ bởi rau muống một nửa chi chít những ống bẫy lươn.
Khi tỉnh dậy tôi phải cố gắng lắm mới nhớ hết được một phần từng chi tiết của giấc mơ. Tôi thấy nhớ Diễm vô cùng, chỉ đến khi tôi đã hoàn toàn tỉnh táo và nhìn thấy bức tranh dang dở vẽ một nửa cơ thể ông lão, tôi mới dứt ra khỏi nỗi nhớ ấy. Trong ánh sáng của buổi sớm bức tranh đặt giữa phòng mang một sức mạnh kỳ lạ, vẻ mặt ông lão trong tranh có vẻ thanh thoát và nhàn nhã hơn khi ông nằm làm mẫu cho tôi. Và tôi bỗng nhớ lại ông lão cũng đã xuất hiện và xen vào giữa tôi và Diễm trong giấc mơ chập chờn như những mảnh ký ức u buồn.
Hôm sau tôi lại quay lại ngôi nhà để vẽ tiếp. Tuổi tác khiến ông lão không thể giữ nguyên một tư thế để tôi có thể sớm hoàn thành bức tranh. Lúc đã quá giới hạn chịu đựng, toàn bộ cơ thể của ông lão run rẩy cơ mặt ông giần giật. Tôi lập tức ngừng vẽ chạy lại đỡ ông dậy, thực sự không khí trong phòng và biểu hiện của ông lão thôi thúc tôi vẽ ông đến nỗi quên đi tuổi tác và sức khỏe của ông có thể bị ảnh hưởng. Ông nói chuyện đó không là gì cả, chỉ cần ngơi nghỉ chút ít là lại đâu vào đấy và bắt đầu nói ra những cảm nhận của mình khi làm mẫu cho tôi. Ông lão nói rằng có những suy nghĩ đã chẳng bao giờ còn thấy bỗng quay trở lại khi ông nhìn tôi mải mê với tấm toan. Sau cuộc nói chuyện dài ông đứng dậy khỏi ghế ngồi và tiến về bức tranh, nhưng không biết vì một lý do nào đó ông ngừng lại và quyết định không xem nó ngay.
- Tớ sẽ xem nó khi cậu hoàn thành. - Ông nói vậy khi quay lại ghế ngồi.
Tôi lại mang bức tranh về phòng mình. Căn phòng cuối tuần chỉ có mình tôi. Tôi ngồi ngắm bức tranh vẽ dở trong nỗi cô đơn của một buổi sáng đẹp trời nghĩ về Diễm và ông lão. Cả hai đều đã đi vào trong giấc mơ của tôi và giờ khiến tôi không thôi nghĩ về sự liên hệ giữa họ. Đặc biệt là ông lão, không thể phủ nhận ngay từ khi mới gặp ông khiến tôi nghĩ về Diễm và quá khứ nhiều hơn.
Ông lão phải nhập viện và điều đó khiến tôi áy náy vô cùng. Bệnh viện đầy mùi chất tẩy rửa và mùi thuốc, ông lão nằm co rúm trên giường với một tay cắm ống truyền dịch dơ ra. Biết được tâm trạng của tôi, ông nhỏ nhẹ khuyên nhủ rằng chẳng có gì liên quan đến tôi cả. Tớ vẫn định kỳ vào đây nằm như thế này ấy mà.
Tôi đọc sách cho ông lão hết buổi chiều cuối tuần trong bệnh viện. Khi phố lên đèn tôi mua cho ông đồ ăn và đợi ông ăn hết mới về. Lúc tôi đứng lên ông lão còn định nói gì nhưng lại thôi.
Hôm sau khi tôi quay lại như đã hẹn với ông, giường nằm đang được các chị hộ lý dọn dẹp. Thấy tôi đứng lặng người giữa cửa phòng, chị hộ lý đứng tuổi đi về phía tôi chìa tay đưa cho tôi một tờ giấy gấp. Những dòng chữ nguệch ngoạc trong tờ giấy nói tôi hãy đến nhà ông lão và lấy chiếc hộp carton được bọc dán để trên tấm phản. Ông cụ đã qua đời và chẳng kịp nhìn thấy bức tranh của tôi. Buổi hôm ấy thật kỳ lạ, tôi không đến ngay ngôi nhà bé nhỏ của ông mà trở về phòng ngồi trước bức vẽ hình dung và hoàn thiện những gì còn dang dở. Phải đến lúc này tôi mới nhận ra sự quen thuộc trên từng nét mặt của ông lão. Tôi cặm cụi vẽ cho đến khi dứt ra khỏi bức tranh bên ngoài trời đã tối mịt. Căn phòng vắng, không khí đặc sệt, ánh sáng yếu ớt hắt vào từ cửa sổ khiến khung cảnh càng thêm kì dị. Hơn hết luồng sáng chiếu đúng vào bức tranh, cơ thể hom hem của ông lão sáng lên một cách kì dị. Tôi nhìn bức tranh đã hoàn thiện và thấy buồn ngủ, hai mắt díp lại tôi leo lên giường nằm và ngủ mê mệt.
Bỗng nhiên tôi phát hiện ông lão đang ngồi trên giường đối diện nhìn tôi, tôi nhớ mình không nói địa chỉ cho ông và cũng chưa bao giờ ông hỏi. Tôi lật chăn ngồi dậy tiếp chuyện ông lão. Cậu nên nhớ lại những giấc mơ của mình khi ngủ dậy, nếu không những điều xảy ra trong đó sẽ thành hiện thực. Thành hiện thực càng tốt chứ sao. Chẳng phải bao giờ cũng có những giấc mơ tốt. Chết hóc, tai nạn, chia ly. Thật vô bổ nếu làm một việc như thế. Cháu ngủ rất nhiều và vô vàn những giấc mơ nối tiếp nhau lẫn lộn nhau trong các giấc ngủ ấy. Các cậu còn trẻ và có nhiều năng lượng để giấc mơ của mình trở nên phong phú, còn khi về già cậu sẽ mơ ít đi vì một là cậu hay mất ngủ hai là chẳng còn gì nhiều cậu thu nạp được từ cuộc sống nữa, cho đến khi cậu chẳng thể mơ gì nữa như tôi đây. Ba mươi năm.
Tôi choàng tỉnh vì nghe thấy tiếng động, mở mắt tôi nhìn ngay về phía giường đối diện, nó trống trơn. Tôi nhìn về phía bức tranh, căn phòng đã sáng ánh điện, một hình người lù lù đứng trước bức tranh của tôi, dán mắt vào nó. Mày vẽ ông nội mày đấy à? Một cái hất hàm ngay khi quay mặt lại của thằng bạn cùng phòng. Không. Khá phết. Cảm ơn. Nó quay người cởi quần áo và quăng người lên giường mà lúc nãy trong giấc mơ tôi nhìn thấy ông lão ngồi đối thoại với tôi.
Ba đêm liền sau đó tôi đều mơ thấy ông lão. Giấc mơ nào cũng vậy, ông nhắc tôi phải nhớ lại giấc mơ của mình mỗi khi thức dậy. Ông lão nói chuyện với tôi nhiều hơn cả khi còn sống. Có khi ông nhắc cả tới Diễm, Diễm của tôi những Diễm xa vời vợi.
Căn phòng mà tôi vẽ ông lão trống trơn, cả bộ phản nằm cũng không còn. Nơi vẫn để các kệ sách của ông, lù lù một tổ mối vừa xông. Bên cạnh cái tổ ấy chiếc hộp ông lão để dành cho tôi vẫn nguyên vẹn. Căn phòng ngột ngạt mùi đất mới. Như trong mộng, tôi ngồi giữa phòng, xé từng lớp chiếc hộp ông lão để lại. Trong đó chỉ có ba cuốn sổ giả da, loại có chìa khóa, nhưng ông lão không dùng đến chìa khóa. Tôi lật dở trang đầu hai chữ viết hoa hiện ra “Nhật ký mơ”; chữ viết là chữ của tôi.
N.V.T
(TCSH347/01-2018)
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.