Biến tấu của trăm năm

10:25 17/03/2009
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha

Sinh ngày 7 tháng 10 năm 1949, ngày mà ở châu Âu một bức tường lớn đã được dựng lên để ngăn những con sóng từ Đông Berlin tràn sang Tây Berlin, dường như Nguyễn Thụy Kha cũng là một trong những bức tường nhỏ được số phận dựng lên để nhận về những va đập, sang chấn của kiếp người.

Thế là tôi đã cởi áo lính
Một thanh xuân vô tư
...
Tôi cởi những thập niên máu xanh
đến bao giờ máu tôi đỏ lại
thật đau đớn khi làm lính mà không chết
                                                (Cởi)
Khi em xiết ghì ta
Là khi ta đang mất
Có bàn tay thứ ba
Vẫy vào ta vĩnh biệt
                        (Bàn tay thứ 3)

Tôi gặp Nguyễn Thụy Kha lần đầu vào khoảng những năm 84-85 của thế kỷ trước, qua người bạn trai thân thiết của anh. Lúc đó Nguyễn Thụy Kha còn khá trẻ. Cùng với nhà văn Trần Hoàng Bách, anh ngang qua thành phố miền trung bé nhỏ của tôi ngày ấy còn hiu quạnh như một thị trấn miền núi trong văn Nguyễn Thành Long.

Gầy, cao, gương mặt ít biểu cảm, cặp mắt thông minh nhưng luôn mang cái vẻ nhìn mà không thấy... Nguyễn Thụy Kha đã để lại trong cảm nhận của cô gái mới ngoài hai mươi là tôi lúc bấy giờ, ấn tượng về một tuýp văn sĩ thị thành lớt phớt. Cho đến khi chùm thơ về chuyến đi của anh xuất hiện trên báo.
Có một phần tôi ở đây ký ức
Bạn mang về bụi đường miền Tây
Khi ấy Vinh là anh bộ đội
Quân phục ướt mưa tươi cười lá cây

Có một phần tôi lang thang phố lạ
Em đi ra tận cửa ngập ngừng
Khi ấy Vinh là người yêu nhỏ
Đoá hoa hồng dấu ở sau lưng
                                    (Một nét Vinh)
Râu quai nón ẩn khuất nụ cười
Quán cà phê cây dừa chợt sáng
Rồi rót rượu rồi ngồi im đá tảng
                                     (Khánh ơi)
Em chìm trong tóc xoã
Như bị lãng quên rồi
                       (Chiếc cổng thành)

Một ngày dừng chân, mấy chén rượu nhạt, dăm bảy gương mặt lướt qua... vậy mà hồn anh đã nhận về những vết  hằn thật sâu. Hoá ra ẩn dưới vẻ ngoài thị thành lạnh và kiêu kia là một trái tim đôn hậu, dễ ngân rung, một tâm hồn phóng khoáng, đầy màu sắc hội hoạ.
                        - Thơ với anh là gì vậy?
                        - Là những khám phá vô tận về một thế giới không nhìn thấy trong một thế giới nhìn thấy.

2. Có lẽ ít có nhà thơ nào lại khai rõ lý lịch cuộc đời mình đến thế, trong thơ. Chỉ cần đọc thơ thôi, là đã biết khá rõ về người. Không lựa lọc, dè dữ, Nguyễn Thụy Kha viết thoải mái, đàng hoàng xếp lớp từng khoảnh sống của mình và người đọc nhận ra rất nhanh:
Những dấu vân tay từ đứa con của biển:
Tóc ướt ròng lấp lánh
Ngực phong phanh mang sóng về nhà
                                                (Mẹ cửa biển)
Ta qua ngày đội vôi đội than
Hồn còn nặng nhhững dáng người lối ngõ
Vết dầu loang tiếng còi tàu bờ đá
Sóng ướt mãi vào ta
                                                (Hải Phòng từ xa)
Về Hải Phòng chạm phải tuổi thơ mình
Thằng bé bụi đời lang thang phố xá
Hạt bụi bây giờ đã già đã mong manh quá
Yêu chưa xong mộng mị cũng chưa xong
                                                (Về Hải Phòng)
Những vết xước nơi tâm hồn người lính từng đi qua chiến tranh:
Tôi cô đơn ôm sốt rừng một thuở
Bao tủi mừng còn đầm đìa đường phố
                                                (Cơn sốt ở Sài Gòn)
Đây là lần thứ hai sau lần làm người lính
Anh cầm trong tay một thứ dễ chết người
Ngoe nguẩy năm con rắn
Giữa vỉa hè phe phẩy như sôi

Lặng im anh thương binh ngồi
Như hồi nào phục kích
chỉ có khác súng thì bắn giặc
còn rắn thì để bán thế thôi 
                                    (Người bán rắn ở Văn Miếu)
Cuộc chiến tranh không chịu ra khỏi tôi
Như bụi trong nhà chẳng chổi nào quét sạch
Cả em nữa tận cùng ngóc ngách
                                                (Bụi)
Và còn nữa, tấm hộ chiếu vĩnh viễn của du khách trên xứ sở Thần Ái tình:
Này tóc gió
Này ngực núi
Này thân đường
Những lượn cong đắm mê không cưỡng nổi
                                                (Đêm ướt)
Này nắng mới tay ngà mắt ngọc
Ta ngũ hành năm giác quan em
                                    (Một góc cho mùa hè)
Ta ghé ngực
Đôi khi ta uống
Thấy mình bay trên tóc mùa hè
                                    (Những cánh tay rừng)

Được xếp vào thế hệ những nhà thơ chống Mỹ, nhưng Nguyễn Thụy Kha (cùng với một số tên tuổi khác như Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Anh Ngọc...) lại đạt tới đỉnh cao phong độ vào thời kỳ đất nước đã chấm dứt chiến tranh, chuẩn bị bước vào sự nghiệp đổi mới. Khát vọng của hôm qua và tâm thế ngày hôm nay day trở không nguôi trong những câu thơ của Nguyễn Thụy Kha. Viết nhiều, có chút nồng nàn làm dáng của thị thành, chút ồn ào bốc đồng của lính, những câu thơ của Nguyễn Thụy Kha trào dâng miên man... Người đọc có thể nhận ra dễ dàng thi ảnh độc đáo, những câu thơ có sức quyến rũ, ám gợi đã làm nên cá tính nghệ thuật của anh: “Bất ngờ mưa tóc vàng/miên man xuân/từng sợi châu Âu từng sợi ngô đồng/khuấy anh lên hỗn loạn” (Mưa tóc vàng); “Chiều không em mặt hồ buồn tênh/trái tim anh ai ném lên thềm”; “Anh lúc nào cũng sắp ngã vào em”; “Đồ Sơn đấm thẳng ta một cú/mạnh và phóng túng Đường thi”; “Từ trong ta khẽ một con thuyền lướt/trên lớp lớp sóng nhà”...

Nguyễn Thụy Kha viết khoẻ, viết nhanh, là một thi sĩ không có nhiều tìm tòi về mặt thi pháp nhưng lại gây được ấn tượng mạnh về sức rung cảm của tâm hồn, tinh thần tự do trong ngòi bút và đặc biệt: một khát vọng mãnh liệt muốn hoà mình với đời sống.
-Trong lao động thơ, ý thức của anh hướng về đâu?
-Về cái mới. Về việc phá vỡ sự cân bằng. Cân bằng trong thơ là chết.
-Anh có chịu ảnh hưởng của ai không và thi sĩ nào anh ngưỡng mộ nhất?
-Tôi bị ảnh hưởng bởi Văn Cao và Hoàng Cầm, hai thi sĩ trái ngược nhau. Nhưng tôi ngưỡng mộ Hàn Mặc Tử, thi sĩ đã lê tấm thân tàn tạ vào bất tử.

3. Là sinh viên của trường đại học thông tin liên lạc, mê âm nhạc, Nguyễn Thụy Kha vào bộ đội và trở thành chiến sĩ binh chủng thông tin ngày đất nước chiến tranh. Chính anh là người đã thiết kế và chỉ đạo thi công đường dây trần liên lạc xuyên Trường Sơn để quân ta đánh Buôn Mê Thuột.
  Yêu âm nhạc và thơ ca từ khi còn học phổ thông, nhưng bắt đầu con đường sáng tác bằng ca khúc, năm 1971 Nguyễn Thụy Kha đã có bài hát được phát trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam. Cuộc gặp gỡ với nhà thơ cùng đơn vị sớm thành danh là Anh Ngọc và một vài người nữa đã làm anh gắn bó với thơ hơn.
Từ chiến trường trở về, Nguyễn Thụy Kha vào học khoá đầu của trường Viết văn Nguyễn Du. Năm 1982 bài thơ Những giọt mưa đồng hành của anh được giải cuộc thi thơ báo Văn Nghệ. Năm 1990, Nguyễn Thụy Kha rời khỏi quân ngũ trở về làm một thường dân, vừa sáng tác thơ vừa viết báo, viết kịch bản phim, biên soạn sách âm nhạc... tự giát mỏng mình ra trên từng trang giấy.

Những đòi hỏi trong công việc của một cộng tác viên ăn lương nhiều tờ báo nổi tiếng qua các thời kỳ, cộng với khả năng lao động dồi dào và sự tài hoa thiên phú đã giúp Nguyễn Thụy Kha có được một số lượng tác phẩm khá phong phú bên cạnh những sáng tác thơ. Đó là những bộ phim chân dung và những cuốn văn xuôi bao gồm tiểu thuyết tư liệu, phê bình, tiểu luận, tạp văn.
Sự am hiểu nhiều lĩnh vực nghệ thuật, khả năng sưu tầm và bao quát tư liệu và một bút lực phóng khoáng đã đem lại thành công cho Nguyễn Thụy Kha trên địa hạt này. Những bộ phim về các nhà văn nhà thơ như Nguyễn Bỉnh Khiêm (Cây đại thụ toả bóng 500 năm), Nguyễn Huy Tưởng (Một người Hà Nội), Vũ Trọng Phụng (Chín năm và vĩnh cửu), Hoàng Cầm (Một điệu Kinh Bắc), Yến Lan (Một bến Mi Lăng)... hay những bài viết về Phan Khôi, Nhất Linh, Lê Văn Trương, Đinh Hùng... trong tập Bóng thế kỷ; đặc biệt là một loạt tiểu thuyết tư liệu về các nhạc sĩ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh như Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Hoàng Việt, Huy Du... đã giúp người đọc, người xem hiểu rõ hơn về cuộc đời cũng như những cống hiến nghệ thuật của nhiều tên tuổi trong nền văn học nghệ thuật nước nhà. Anh đã được nhận giải thưởng cả trong  nước và quốc tế cho bộ phim về Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Thụy Kha nói mình là người có máu giang hồ.
Rượu, bia, gặp gỡ, lang thang, khi làm ăn, khi đàm đạo chuyện chữ nghĩa, rồi tranh cãi, ngợi khen, phán định... đủ cả. Cuối cùng thường là ngồi buồn. Người ít biết về anh có thể cho đó là một cuộc đi hoang và anh đang tiêu đi từng món cuộc đời mình. Còn người biết hơn một chút thì coi đó là một cuộc dấn thân đầy tính mặc định. Sự được thua, còn mất ra sao không rõ, chỉ biết rằng cái hồn thơ vừa lãng đãng mây mưa vừa hùng hồn đau đáu ấy đã được di dưỡng qua thời gian, qua những thăng trầm của cuộc sống:
Cháy thành lửa, tắt thành vuông cỏ
Chín muộn như không thể chín tự nhiên
Những người lính
                 những giọt máu xanh
chảy lặng lẽ trên thân hình bán đảo
                          
(Máu xanh)    
Cay và thơm tinh khiết
ớt xanh
Cái ngọn lửa màu lá biếc
Thiêu đốt anh giống một người tình
                                                (Ớt xanh)
Làm sao quen được hết người mặt đất
Em đi qua em đẹp dửng dưng
Nên anh cứ một mình thiên nhiên
Cứ âm thầm chồi tơ cành biếc
Uống cuộc đời tới chiều tà cạn kiệt
Ngã đã có đêm nâng                                         
                            (Một mình)
Hay nói bằng cái giọng chán đời nhưng thực ra là một người khát sống; tự ném mình vào gió bụi, vào những góc khuất, rồi lại tự mình “lộ sáng”; ky cóp góp nhặt nhưng cũng có lúc tung hê... cứ thế Nguyễn Thụy Kha sống và viết. Và những câu thơ của anh đã có được một hơi thở thật phóng khoáng, trẻ trung, giàu sinh lực.
                        - Một câu thơ thật hàm súc về bản thân, thưa anh?
                        - Một cái đáy không thể chạm tới.
   Hà Nội, ngày 31tháng 3 năm 2005
   N.L.N

(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.