Minh họa: Đặng Mậu Tựu
1. Khu định cư làng Vòm trưa nắng vàng bủng như da người mắc bệnh cơ gan cổ trướng. Tư Ngon ngơ ngác. Ngơ ngác buồn: Ngơ ngác trước đề văn của thằng cháu nội lớp sáu. Văn tả cảnh chiều làng cá trên biển. Viết đi con. Viết đi Sóng. Nội tả cho. Viết cho hay vào. Mặt trời sà xuống biển. Ráng chiều đỏ thẫm như mặt thằng say rượu bữa, gặp dịp. Dịp vui. Dịp trúng mùa cá cơm. Cả làng chài cựa quậy, nhảy lanh canh, lấp lánh ánh ngày. Cát vàng pha trắng, nắng từ chiều nên ấm. Ấm gan lòng những bàn chân to bè vững ngàn năm cùng biển. Rồi đêm. Đêm tha nắng. Nắng ẩn xuống cát, tối mịt mù tăm cá. Những bàn chân to bè bỗng loạng choạng. Đến đó, Tư Ngon lại ngơ ngác buồn. Đọc. Nhưng đoạn nầy, thằng Sóng thấy lạ. Sóng nhìn sững ông nội, càm ràm. Nghỉ nội ơi. Mỏi tay rồi. Mà biển của nội chiều ni lạ quá. Biển nội khác với biển người. Biển của cô giáo Sóng. Biển người như công chúa, như hoa hậu về thăm trẻ em khu định cư sau lũ. Biển người có tiếng hò dô gọi cá về, vẫy vùng lưới lộng buồm căng. Biển người có khu rờ khu giọt chi đó, thơ mộng, yên lành. Biển nội khác. Biển nội như khu định cư buồn mùa nước nổi mênh, ngồi co chân lăn những viên bi trên nền đá gạch nhớ bụi bờ hang hốc trưa hè sân nắng. Biển nội, chán như gói mì ăn hoài hôm lụt (gói mì ông làm to trên tỉnh cho rồi rờ trán con trước máy quay phim). Biển nội… Tư Ngon ngơ ngác nhưng nghe. Được mất, đắng ngọt tiếng càm ràm của Sóng. Ngơ ngác chợt tỉnh. Ngơ ngác bỗng nóng ran đầu chân tóc. Tóc dựng như buổi còn chân cứng sóng mềm, cùng cha thằng Sóng ra biển. Biển của mình. Tỉnh mà mê. Và quên. Và giận. Quên thằng Sóng là cháu nội. Quên nó là thằng con nít (dẫu là nít ranh). Lửa giận lâu ngày càng âm ỉ. Lửa ngún qua thịt da, thấm sâu từng thớ thịt ướp muối biển thời đỏ hỏn, ẩn chìm trong ruột, trong gan, trong phèo, trong phổi. Lửa buổi người ta mất. Mất thật. Lửa tưởng cá là thớt, tưởng Sóng là người ta. Lửa phun thành dòng, thành lời. Lời đắng. Đồ ngu. Biển của tao mới là biển. Biển mình. Biển công chúa, hoa hậu chi đó, rờ giọt chi đó là của người. Biển của người ta. Biết không thằng ôn đâm thánh vật, thằng con nít hỉ mũi chưa sạch… Bây giờ, đến phiên thằng Sóng ngơ ngác (Sóng biển ngơ ngác tội lắm. Sóng không muốn hại người. Sóng bị gió cuốn, bốc đầu đánh tàu bè, kéo người ta xa đất. Xong cơn ma khiến quỷ xui, ngơ ngác. Ngơ ngác như người sau một đêm say mèm làm điều không phải, thẫn thờ sám hối). Nó vỗ lưng ông nội bành bạch. Ông nội chắc say rồi. Mai làm cũng được. Ba ngày nữa cô giáo mới bắt nạp bài. Tao không say. Tao có miệng để tao nói. Biển tao rứa đó. Người làng chài ăn to nói nậy nhưng quyết không nói điêu. Lời mặn như muối bể, ngổn ngản như cát nhưng ruột gan, lời nói là đọi máu. Vứt biển mi đi. Thằng ranh… Biển đó nỏ chơi. Biển đó là biển của người. Biển của người dưng. 2. (Mà người dưng cũng có năm, bảy người dưng) Người dưng xưa về làng Vòm dạy học là cô giáo Bình. Bình da trắng như thoa kem, mới về nên ỏn ẻn thị thành. Nhà Tư cách chỗ cô giáo dạy một đồi cát bỏng rát chân người lạ. (Lúc ấy chưa có tàu lạ). Mỗi lần theo cha ra biển, ngang ngôi trường có hai lớp học của cô giáo Bình, người Tư cứ rần rần, xốn xang như người cao huyết áp uống phải nước mắm ruốc làng Vòm. Ngực Tư lúc ấy lại là ngực trai biển mới lớn. Thấy da cô Bình trắng xanh thị thành, ngực xốn xang bảo lòng chọn loại cá cơm than, sóng đen ở giữa, ép thành nước mắm nhĩ nước nhất tặng cô. Nhìn dáng cô Bình gầy guộc, mỏng như mực phơi nhiều nắng, ngực lại rần rần bảo tay đánh loại cá nục chuối mình no tròn như ngô núi còn nhảy lanh canh từ mẻ lưới sớm cho cô. Một bận, bão quét làng Vòm. Bão vô biển như trâu đực động cỡn xổng chuồng. Cô Bình bịt tai ngồi khóc hu hu dưới gầm bàn miệng gọi mẹ ơi, mẹ ơi. Đêm ấy, may Tư không theo cha ra biển (Mà nếu ra biển, ai sẽ vào vai Tư mà đóng trọn vở anh hùng cứu mỹ nhân?) Có Tư, cô giáo Bình không còn bịt tai ngồi khóc, không còn gọi mẹ ơi, mẹ ơi. Có cô giáo Bình, Lục Vân Tiên Tư làng Vòm nhìn bão Ô Qua chỉ như ngọn nồm hiu hiu đong đưa giấc ngủ trưa hè, ầu ơ tiếng võng. Như ngọn gió hôm ni, phát ra từ cái quạt bàn Trung Quốc lâu ngày không nhớt… nhỏ như con tép, con tôm. Sau trận bão Ô Qua, như một kết thúc có hậu của bất cứ vở tuồng quen quen anh hùng cứu mỹ nhân nào, gái thị thành đã phải lòng trai quê làng biển (phải lòng đàng hoàng chứ không phải kiểu phải lòng điêu ngoa, cà rỡn như cái cô Hiên thành thị với trai làng biển Vọi vắn số, si tình. Cái chàng Vọi đỉa mà đòi đeo chân hạc ngày xưa...). Đám cưới Tư và cô giáo Bình khiến cả làng Vòm say đến mấy ngày. Rượu đổ vào họng trai làng biển dịp vui như mưa rào không thấm đất. Làng Vòm cụng nhau rôm rốp (Lúc ấy, họ cụng ly nhau không một, hai, ba… dô dô, dô dô như bây giờ. Lúc ấy, trai làng Vòm hô một, hai, ba… Tư… ngon). Mà ngon thật. Trai biển quê kéo được gái thị thành khi chưa có chuyện vượt biển, chưa có khu rờ khu giọt, nó động trời, động đất như Huyền Trân về với Chế Bồng Nga, như Diệp Băng Đình với nàng Chiêu Trúc Lệ trong vở tuồng “Thuyền ra cửa biển” có kép độc Út Trà Ôn. Ừ. Tên Tư Ngon của nội là ngon kiểu đó, à con. Ngon vì kéo được phố về biển. Không phải kéo theo cách của khu rờ khu giọt chi đó, “Đảo Ngà”, “Đảo Ngọc” chi đó. Về kiểu đó đâu gọi là ngon. Kéo về kiểu đó cả làng Vòm biến mất, kéo về kiểu đó, khiến sóng biển bạc đầu thành giọt nước máy khu định cư nhỏ nhỏ nước đái thằn lằn. Kéo kiểu đó, lòng làng quặn. Lòng người đau thắt. Mà lòng Tư Ngon là lòng làng. Vì vậy, buồn thành dòng xối xả như đêm nay dưới mái tôn khu định cư nằm nghe mưa thắt ruột người dưng của biển. Người dưng đã đi. Đi là đi biệt.
(Thằng Cát, thằng Vẹm, con Trìa đã lớn lên. Những đứa cháu nội, cháu ngoại như Sóng, Lưới, Ghe, Cát đã lớn lên...). Buồn lại càng thành dòng, thành tiếng khi người dưng của biển mịt mù tăm cả mà biển chừ. Biển chừ... Tư Ngon thở dài xoay lưng trở mặt vô vách. Biển chừ đã không còn. Biển chừ là của người dưng. Và nhớ là nhớ người dưng tự nhiên bỏ biển. Và ngơ ngác ngơ ngác khi biển là của người dưng. 3. (Mà người dưng cũng có năm bảy người dưng) Người dưng nay về làng Vòm vét đen, vét trắng. Người dưng nay ồn ã, mập to chứ không như cô Bình ngày xưa. Người dưng nay họp dân ba bốn bận. Người dưng nay mắt nhìn xa tận biển. Thưa bà con. Biển cho ta nhiều mà lấy của ta cũng lắm. Cho cá, cho tôm, cho cái ăn, cái mặc… Rồi một năm, biển lại lấy về. Lấy nhà, lấy cửa, lấy hàng dương chặn cát cuối chân đồi, lấy cả cái sống. Thưa bà con (nói đến đây người dưng mắt đỏ hoe. Ông ủy ban xã đưa chiếc khăn) Vâng, theo số liệu thống kê thì từ trận bão 1985 đến nay, biển đã lấy mạng sống của… Tai Tư Ngon ù ù nhưng lời ngọt tận xương. Thanh niên làng Vòm một hai ba dô dô từ mấy ngày họp dân, đầu váng vất, vỗ tay rôm rốp. Rứa là đổi đời rồi. Rứa là khỏi sợ cái nạn “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” rồi. Mần một ly đi chú Tư Ngon, thổ địa làng Vòm. Làng Vòm sắp thành Đảo Ngọc. Thưa bà con, Đảo Ngọc sẽ là khu resort lớn nhất ở đây với vườn sinh thái và hàng trăm phòng nghỉ dưỡng. Bà con sẽ không cần ra biển mà biển với hàng ngàn loại cá sẽ hiện ra trước mắt trong những bể kính khổng lồ với sân golf đẳng cấp quốc tế. Thưa bà con… Tư Ngon bỏ về nhà nằm. Gió biển qua sóng, qua những dải cát vàng pha trắng rin rít muối bể mặn chát lòng. Thằng Sóng đi học về, thấy nội nằm thượt. Nó hỏi. Nội không ra đình họp làng à? Tư Ngon mở mắt, gắt. Con nít biết chi. Sóng ngơ ngác. Bộ con là người lớn à. Ừ. Nội sai. Ra bà Bển lấy nội xị rượu. Sóng lại hỏi. Rượu bia ngoài đình nhiều vô kể. Mua làm chi. Nội lại gắt. Con nít. Rượu bia của người. Sóng bước ra sân, làu bàu. Rượu mà cũng của mình, của người. Nội chưa uống đã say. Ừ. Con nít mà nói đúng. Ừ, có những lúc người ta chưa uống đã say. Bữa người dưng xưa bỏ Tư Ngon mà đi. Đi là đi biệt. Tư Ngon nằm liệt giường gần một tháng trời. Biển đang mùa cá cơm nhưng lòng Tư Ngon lạnh ngắt. Lạnh như chiều nay từ chỗ họp dân về. Đành rằng, trời mưa thì đất chịu nhưng đau gì như thể. Thấy tụi thanh niên ngồi với mấy xị rượu có mấy con cá chỉ vàng khô đét cầm ống hát nghiêng ngả. Sao đành bỏ quê hương, sao đành bỏ phố phường… giữa mùa cá cơm sền sệt của biển, lòng Tư Ngon lại như cá xát muối. Thấy mấy đứa con gái tóc bắt đầu vàng, mỏ bắt đầu đỏ, ỏn ẻn trên đồi cát, lòng Tư Ngon lại nhói như kim châm. Mấy con mẹ cò đất bắt đầu lảng vảng đầu ngõ cuối thôn. Những người già bằng Tư Ngon cũng bắt đầu láo liên, nghiêng ngó. Xưa cả làng Vòm nhà tuốt tuồn tuột từ bến đò bãi dương đến cuối đồi Cát Đọng. Nay cọc rào, lưới B40 giăng như lưới cá. Chỗ lão Hoạt với bố thằng Xúc là chỗ thân tình. Chỗ mẹ Thìn, mẹ Đẻo là chỗ sống để bụng chết mang theo mà nay lấn tấc đất cọc rào mà nhìn nhau không sữa. Tư Ngon đau quá thể. Cái gì bây giờ cũng như thể người dưng. Cái gì rồi cũng người dưng. Biển của người dưng, người làng Vòm với nhau cũng là người dưng. Cát cũng người dưng, sóng cũng người dưng. Đến nỗi, ngọn gió chiều nay bên cút rượu mệ Bển cũng người dưng. Đà này, tuốt rồi, cái bãi tha ma cuối đồi cát đọng, bãi chôn biết bao người làng Vòm chết sông chết biển, chết bão chết lụt, chết bệnh chết tật… rồi cũng ra người dưng. Người sống với nhau là người dưng đã đành. Người sống với người chết mà cũng là người dưng thì ra thể thống gì nữa. 4. Bữa cuối cùng làng Vòm để chuyển về khu định cư, Tư Ngon ra thăm mộ vợ, cái cô giáo Bình ngày xưa. Chiều biển động đất cát bay mù mắt người. Hoang lắm, vắng lắm càng hoang vắng. Tư Ngon đốt nén nhang rồi ngồi bệt bên mộ vợ. Tư Ngon bày ra đĩa hai con mực một nắng (cái thứ mực mà ốm nghén cô giáo Bình cứ đòi ăn như khoai đất cát). Tư Ngon nghĩ thẫn thờ ngơ ngác (biết đâu mai này mực cũng người dưng). Nghĩ một lúc, Tư Ngon xá vợ. Mình sống khôn thác thiêng phù hộ cho đất mình nằm, chỗ mộ gió của tôi đừng biến thành khu rờ khu giọt, sân gôn sân guốc chi đó nữa. Đất trời còn rộng lắm, thẻo đất cùng trời cuối biển này xin người tha cho. Sống đã không còn được thấy biển thì chết mong được một lần… Một lần… Tư Ngon thầm thì với vợ, với những người sống với cát bụi làng Vòm nay chết cũng về với cát bụi làng Vòm. Bụng Tư Ngon nghĩ. Nước nầy phải cậy nhờ người chết may ra rẻo đất cùng trời cuối biển nầy mới không phải là của người dưng. Đáp lại bụng dạ của Tư Ngon, sóng biển động ầm ào trong chiều dưng dứt. Nắng đã xế về bên xứ bạn. Vợ Tư Ngon không thể đáp trả. Người đàn bà đã ngủ trên cánh tay của biển. Dù biển, dù biển bây giờ là của người dưng. 5. Không còn trận bão Ô Qua, không còn mỹ nhân cũng chẳng có anh hùng, trận bão có thực khủng khiếp nhất tràn qua làng Vòm (nay là khu resort Đảo Ngọc). Cả khu định cư rung lên bần bật với tất cả giận dữ cuồng điên. Tư Ngon nổi tiếng bạo gan (bão lạ, tàu lạ giữa biển trong những chuyến đánh bắt xa bờ ngút ngàn sóng, y còn chưa sợ). Thế nhưng trận bão bây giờ, Tư Ngon thấy khiếp, thấy xốn xang gan ruột. Bão quần từ tầm sáu giờ chiều đến rạng sáng. Sau đó là nước. Nước từ biển với những con sóng cao lút đầu người tung bờm trắng xoá như ngựa xổng chuồng nhớ đại ngàn xa xăm. Nói thực Tư Ngon không sợ và lo cho người sống. Tư Ngon lo là lo cho người chết. Mộ đắp ở bãi tha ma Cát Đọng sơ sài như con nít nghịch cát. Tư Ngon lùng bùng chao chát. Tư Ngon nghĩ biển của người dưng nên biển có vô tình kéo kết ra khơi? Tư Ngon vái trời. Người sống đã đành. Người chết có tội tình gì? Bão dừng. Cả khu định cư thở phào nhẹ nhõm. Khu resort Đảo Ngọc cây lá lại lên xanh. Du khách lại ỏng ơ phơi mình trên những chiếc ghế dài trải dọc theo triền cát biển. Những con cá gan góc cùng biển khơi nay lại yên lành nhởn nhơ trong bể kính (liệu thả chúng ra biển chúng có lại gan góc như xưa?) Tư Ngon đi như người say, như trẻ con lẫm chẫm trên cát. Xưa từ chỗ nầy về biển, về bãi tha ma cát không đủ bỏng chân người lạ. Nay Tư Ngon phải vòng vèo rào cọc, lưới tường. Bảo vệ khu resort thấy Tư Ngon một mình về phía biển xa, bảo. Chú Tư về phía đó làm gì? Tư Ngon nạt gắt (như đã từng nạt gắt với thằng cháu nội). Các chú thì biết gì. Đó là bãi tha ma. Nơi đó có người làng Vòm bao đời cùng biển. Họ phá lên cười. Ông già say rồi. Ừ. Say rồi. Điên cũng được. Mà nói say, nói điên cũng phải. Về phía đó làm gì. Người chết đã bị sóng biển điên cuồng lôi ra hết ngoài khơi. Bãi tha ma đã thành một cửa biển mới sau trận bão lụt chưa từng có trên đầu người bạc tóc như Tư Ngon. Ừ. Các chú không biết gì. Tư Ngon nghĩ. Nhưng các chú lại nói đúng. Về phía đó làm gì khi chỉ còn biển. Biển của người dưng. Về phía đó làm gì. Nắng đã xế về bên xứ bạn. Người đàn bà gối giấc ngủ trên cánh tay của biển cũng đã không còn. Mà lạ. Không có gì nhưng Tư Ngon cứ muốn đi về phía ấy. Dẫu phía ấy, không có gì ngoài biển. Mùa Đông 2010 B.L.Q (264/2-11) |
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.