Bên sông Bồ

16:41 19/01/2009
NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

Chúng tôi về Quảng Thọ sau mùa mưa lũ, nước sông Bồ còn cao. Đồng đang còn mênh mông nước. Dân đang chờ nước xuống để vào vụ Đông Xuân. Các thôn Phò Nam A, Phò Nam B, Phước Yên, Lương Cổ, La Vân Thượng, La Vân Hạ... như những hòn đảo xanh nổi trên mặt nước.
Về Quảng Thọ lần này rất thú vị là Hội đồng nhân dân xã đang họp trên hội trường ủy ban xã với nội dung sôi nổi: xã muốn nghe các trưởng thôn báo cáo cho chính quyền biết nhân dân đang bức xúc điều gì, để xã tìm cách lo cho dân.
Tôi hỏi anh Minh, Chủ tịch hội đồng nhân dân, Bí thư Đảng ủy xã:
- Nhân dân đang bức xúc điều gì vậy?
Anh Minh đáp:
- Chỉ bức xúc hai điều thôi, anh ạ. Một là sau lũ lụt, trên hai con đường Phò Nam A đi Phò Nam B dài 2 km và từ Phước Yên đi La Vân Hạ dài 5 km, đất bị sạt lở dữ quá, 9 hộ gia đình bị lở mới tạm ổn định. Điều thứ 2 là điện ở Quảng Thọ mất dữ quá! Có điện mà dân vẫn phải ăn cơm đèn dầu. Máy bơm nhiều lúc cần hoạt động lại không có điện. Đề nghị trên quan tâm cho cả hai điều đó.

Rõ ràng Quảng Thọ đang tiếp tục cần đầu tư. Tôi biết còn một điều thứ ba ở cuộc họp này dân không nói, nhưng ngồi đâu cũng thấy dân ca cẩm, đó là trạm y tế xã đã quá xuống cấp, nhiều lần đề nghị sửa chữa. Trên đã hứa, nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa được nâng cấp.
Dân Quảng Thọ trải bên sông Bồ đông đúc, có tới 7515 người của 1512 hộ. Và đất canh tác toàn xã 500 héc-ta. Nghề truyền thống trên đất ấy là nông nghiệp. Cho đến bây giờ người nông dân đang còn vất vả lắm. Theo như anh Hồ Huy Thạnh, Chủ nhiệm Hợp tác xã 2 thì:
- Do đầu vào cho cây lúa quá đắt, từ nhân giống, thuốc trừ sâu, nước đều không thể thiếu vậy nên một sào lúa, dân chỉ lãi 150.000 đồng. Còn nuôi một con lợn suốt ba tháng, bán đi cũng chỉ lãi được 100.000 đồng. Mặc dù năng suất lúa rất cao, đạt tới 62 tạ một héc-ta.
 Anh Thạnh nói tiếp:
- Đợt các mặt hàng tăng giá vừa rồi, nông dân chúng tôi kinh hoàng. Không biết số phận cây lúa của mình ra sao.
Nghe một chủ nhiệm hợp tác xã nói như vậy, tôi thấy lo. Tôi băn khoăn hỏi:
- Vậy làm sao người nông dân Quảng Thọ sống được?
Anh Thạnh đáp:
- Quả thật nếu chỉ trông vào cây lúa thì lo quá. Song người nông dân chúng tôi bụng đói thì đầu gối phải bò. Trên đồng ruộng, chúng tôi thực hiện dồn điền, đổi thửa. Có chỗ vốn là đất lúa, bây giờ bỏ lúa, trồng màu, thậm chí đào ao thả cá nữa. Màu trồng đủ thứ rau, mỗi sào đạt từ 7 triệu đến 10 triệu đồng. Còn rất may chúng tôi có hệ thống nước sông Bồ, bà con thả cá. Hiện nay toàn xã có tới 230 lồng cá. Mỗi lồng một năm cũng lãi từ 7 đến 10 triệu đồng.
Anh Võ Lạc, Trưởng thôn La Vân Hạ cho biết thêm một điều tường tận:
- Đất chúng tôi ít, nên sau vụ cấy, vụ gặt, sau Tết, những lao động thừa của chúng tôi đi làm thuê, làm mộc, làm nề, số rất đông lên tận Tây Nguyên giúp họ trồng cà phê. Những gì dùng sức lao động để kiếm ra đồng tiền, chúng tôi làm hết. Có vậy mới mở mày mở mặt được.

Tôi có cảm giác người nông dân Quảng Thọ đang tiếp tục vắt sức để nâng cao đời sống của mình.
Đi vào đời sống hết sức cụ thể, quả là dân Quảng Thọ có ý thức đầu tư cho tương lai. 100 phần trăm các cháu đến tuổi, đều đưa tới lớp mẫu giáo, cấp một và trung học phổ thông cơ sở. Không kể mẫu giáo, hai trường tiểu học và một trường Trung cấp cơ sở đã có 790 cháu đến học (có một số cháu ở 2 xã bên các thôn gần Trường cũng có cho con tới học). Riêng năm 2007, Quảng Thọ có 50 cháu thi đỗ đại học và 70 cháu đỗ vào trung cấp. Cứ tính sơ sơ, cứ 10 người dân Quảng Thọ thì có một người cắp sách tới trường. Đó là một con số đáng mừng.
Tôi hỏi anh Thạnh:
- Anh có thể nói đời sống cụ thể của dân Quảng Thọ hiện nay như thế nào?
Anh Thạnh đáp:
- Nhà nào cũng có con em đến trường. Cứ 100 hộ thì 90 hộ có ti vi, 70 hộ có xe máy, và hầu như nhà nào cũng có điện sáng, tuy chưa sáng đều như chúng tôi đã nói. Anh đi lại khắp xã mà xem, nhà tranh tre nứa lá hầu như không còn, tất cả đã được thay bằng nhà xây. Gió bão không đến nỗi lo nữa.

Các anh trưởng thôn ngồi xung quanh, đều nhất trí: đời sống nhân dân còn khó khăn nhưng gia đình nào cũng cố gắng tổ chức một đời sống cho ổn định. Có không ít gia đình cho con đi học đại học phải vay tiền, kể cả vay ngân hàng. Nhưng không một ai không lo cho con, đó là tương lai của mình.
Anh Võ Lạc kể:
- Điều dân chúng tôi rất mừng là xã có ý thức sắp xếp, tổ chức cho dân sống bằng tập tục của dân làng đã hàng mấy trăm năm tề tựu với nhau. Các tộc họ quây quần, tháng 8, tế lễ ngài khai canh cho con cháu nhớ tổ tiên. Tết có lễ hội ngày xuân vào 20 tháng Giêng, lễ hội xuống đồng, cầu mong mưa thuận gió hòa. Ngày ấy, chúng tôi tổ chức đua ghe, thanh niên cho đá bóng. Bà con nhắc nhau thực hiện các chủ trương của nhà nước như một cặp vợ chồng chỉ nên có hai con. Nếp sống văn hóa ấy bà con thấy gần nhau, điều quan trọng là mọi người ý thức được mình nên sống với nhau như thế nào cho đúng là phải “xóm giềng tắt đèn tối lửa có nhau”.

Lúc đợi các trưởng thôn họp hội đồng nhân dân, chúng tôi có đi một vòng quanh làng Phước Yên, làng xóm rất sạch sẽ, nhà nhà ăn ở ngăn nắp. Sáng rực các đường xóm là các nhà thờ họ, không đồ sộ, nhưng đẹp, các màu xanh đỏ vàng và bố cục hình khối rất hài hòa. Rõ ràng các dòng họ đã quy tụ lại để con cháu biết phận mình. Điều chúng tôi thầm hiểu là các dòng tộc ở Quảng Thọ rất có ý thức về dòng máu của mình. Đó là một nét văn hóa rất đặc trưng của Việt . Bên cạnh nhà thờ họ, đình chùa các làng cũng được xây cất đàng hoàng.
Tôi khen:
- Nhà thờ họ ở Quảng Thọ rất đẹp.
Một người đàn ông đi bên đường đáp:
- Chúng tôi thường nghe hát trên đài: “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Gia đình, họ tộc chính là quê hương chứ gì.
Tôi nói:
- Người dân Quảng Thọ nào cũng nghĩ được như ông, thì rất mừng.
- Dân chúng tôi đều nghĩ vậy cả. Và mọi người đều sống bằng quy ước do chính dân làng mình bàn bạc và quy định với nhau.
Không nghi ngờ gì, nếp sống ở Quảng Thọ đã ổn định.
Tôi hỏi anh Minh:
- Sự nỗ lực của dân là rất quan trọng, nhưng sự đầu tư của nhà nước cho Quảng Thọ ra sao?
Anh Minh đáp:
- Không có nhà nước đầu tư, thì quả thật khó có một Quảng Thọ như ngày nay. Chắc anh đi đến đâu cũng nghe 4 chữ: điện, đường, trường, trạm. Hệ thống điện, và đường trong xã có thể gọi tạm thời bằng lòng với nhau. Đường các thôn đã được thay đường đất bằng đường xi măng, nhà nước cho 7 phần, dân góp 3 phần. Còn trạm y tế, trường học, do nhà nước cấp hết. Toàn bộ hệ thống kênh mương đã đạt 60% yêu cầu. Trong hai năm nữa chúng tôi sẽ hoàn chỉnh. Anh về nông thôn vào vụ mùa, anh sẽ thấy nông nghiệp đã được hiện đại hóa khá tốt, máy nước đổ nước vào đồng. Nông dân không dùng trâu kéo cày nữa, mà cày máy hết, rồi gặt cũng bằng máy, tuốt lúa cũng bằng máy. Canh tác miền quê cũng được thay đổi nhiều.

Các trưởng thôn ngồi quanh tôi kể chuyện mỗi lúc một hào hứng. Nhất là xã tổ chức cho dân góp ý với các cán bộ xã, từ chủ tịch tới mặt trận, thanh niên phụ nữ... xã cho dân nói hết. Sai đâu cán bộ xã sửa đấy. Nghe chuyện mà tôi thấy tiếc là giá mình được dự những cuộc họp đầy màu sắc dân chủ ấy.
Anh Minh chỉ người trưởng thôn ngồi trước mặt tôi:
- Anh Trần Phùng Phú đó, một trưởng thôn, không phải do Đảng cử, mà các đoàn thể và nhân dân đề cử, và bầu bằng phiếu, trúng trưởng thôn.
Anh Phú nói:
- Đúng như anh Minh nói anh ạ. Muốn dân bầu, thì dân phải tin, phải gởi gắm được quyền lợi họ trong đó. Tôi sẽ cố gắng làm tốt nhiệm vụ của mình, không thể phụ lòng tin của dân được, mặc dù tôi chỉ là quần chúng, không là đảng viên.
Anh Minh nhấn mạnh:
- Nhiều đảng viên của ta còn trẻ quá, chưa có kinh nghiệm, mà dân đã không tin ai thì người đó khó mà hoàn thành nhịêm vụ của mình. Ví dụ như một việc thôi, anh nói “chuyển đổi cây trồng” mà anh không có kinh nghiệm làm sao anh thuyết phục nổi người ta. Anh nói: phải cấy giống mới, mà chưa trồng, chỉ nói theo sách, chắc chắn không thể thuyết phục người nông dân kinh nghiệm đầy mình. Vì vậy điều trước tiên của trưởng thôn là phải được dân tin, dân yêu.

Chuyện xoay quanh người nông dân với làng quê và nghề nông của họ tưởng như không thể dứt.
Tôi chợt hỏi:
- Dân mình có đề xuất ý kiến gì với trên không?
Mọi người đều hăng hái phát biểu. Ý kiến xoay xung quanh mấy điểm. Một là phụ cấp trưởng thôn 540.000 đồng thì ít quá. Lương cho các cán bộ đoàn thể chưa hề có. Hai là hệ thống cơ sở hạ tầng đã có nhưng còn cần bổ sung, nhất là đường sá, nước ngọt. Ba là đề nghị nhà nước đầu tư kỹ càng về vốn, về khoa học kỹ thuật, về chuyển đổi cây trồng. Có vậy người dân mới có điều kiện để nâng cao đời sống cho mình. Bốn là cần có chính sách bù lỗ để khuyến khích nông nghiệp. Nghe nhiều nước đã làm, ta có làm được không?

Rõ ràng về nông dân, nông thôn nông nghiệp cần được điều tra thật kỹ càng để nghị quyết của trên thật sát, mới có hiệu quả, chứ nói xong quên ngay, hoặc nói xong bỏ đó, thì nông dân còn vất vả lắm.
Sau cuộc gặp gỡ, lúc sắp ra về, anh Minh nói tâm trạng mình như một lời tâm sự:
- Quảng Thọ có 13 chi bộ, mà chỉ có 2 chi bộ được công nhận là trong sạch, vững mạnh. Bây giờ đã đến lúc nói thật với nhau rồi anh ạ.
Như thế có nghĩa là 11 chi bộ còn yếu kém.
Ở nông thôn không chỉ chú ý đến tam nông, mà rất cần chú ý đến chi bộ đảng kề ngay bên nách người nông dân nữa.
                      N.Q.H

(nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.