Bàn về chữ "Giá" trong một bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm

14:54 03/09/2014

Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

Ảnh: internet

Hiện nay bài thơ cũng được chọn vào chương trình Ngữ văn 10 của bậc THPT và lấy tên gọi là Nhàn. Bài thơ như sau:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến cội cây đa sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Bài thơ nôm na, dung dị, không dùng từ Hán - Việt và điển cố cầu kỳ. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có nhận xét chung về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau: Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không gọt dũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời. Bài thơ đã được trao đổi, phân tích, bình giảng của nhiều nhà giáo, giáo sư, cán bộ nghiên cứu, nhà thơ và cả những người yêu thích văn chương nữa. Phần lớn các ý kiến phân tích đều có sức thuyết phục và đã giúp cho các em học sinh hiểu được một cách sâu sắc hơn quan niệm sống của nhà thơ (chữ Nhàn) qua đó thấy được nhân cách và những nét đặc trưng trong phong cách thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (giọng điệu trữ tình kết hợp với chất triết lý). Thế nhưng cũng có một vị Phó GS đã gán ghép cho cụ Trạng và bài thơ hàng loạt điển cố xa lạ của Tàu[1]. Ông cho rằng người soạn sách giáo khoa giảng cho các em học sinh mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá là sai, mà phải hiểu như ông là khi phá đề Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ngay điển từ Nhạc phủ - bài Kích nhưỡng ca để mở đề: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, nghĩa là đào giếng mà để uống, cày ruộng mà để ăn”. Ông còn trích dẫn tràng giang đại hải tư tưởng Mặc Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử. Về chữ cần câu tác giả bài viết này cũng buộc cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm không được dùng lưỡi câu bình thường và mồi câu thơm như ở quê nhà mà phải câu lưỡi thẳng như cụ Lã Vọng trong lịch sử cổ đại Trung Hoa. Ông gán cho Nguyễn Bỉnh Khiêm điển Trang Tử về cần câu và dẫn bài Trúc Can trong Kinh Thi để minh họa. Sự gán ghép trên đây quả là khiên cưỡng, bởi vì Lã Vọng ngồi câu với lưỡi câu thẳng là để chờ thời và cuối cùng cụ đã đạt được mục đích là giúp Vũ Vương diệt Trụ lập nên triều đại nhà Chu, còn cụ Trạng của chúng ta thì đã từ quan về ở ẩn ở chốn quê nhà, lấy chữ nhàn làm lạc thú nhìn xem phú quý tựa chiêm bao  thì việc gì cụ lại phải bắt chước Lã Vọng. Vị PGS này còn xúc phạm những người viết sách giáo khoa là vẹt hót khi họ phân tích: Bốn mùa xuân, Hạ, Thu, Đông, mùa nào nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao:

Thu ăn mang trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Hai câu là bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hướng sắc.

Măng trúc và giálà hai loại thức ăn bình dân, quê kiểng bao đời nay, cần gì phải đi tìm gốc gác trong kho thư tịch cổ ngổn ngang của Tàu và trích dẫn lời Mã Viện (14TCN đến 49SCN)- một tên tướng đã từng xâm chiếm và cai trị nước ta - cho rằng, vị măng đông ngon hơn măng cuối xuân, hoặc dẫn chứng những câu chuyện có liên quan đến măng của các danh nhân cổ đại Trung Quốc chẳng dính líu đến câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cái kiểu bình luận văn chương theo lối nói lấy được để phô trương kiến thức biến con chuột thành con voi đã làm cho vị PGS đi quá đà đẩy câu thơ cụ thể của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lên một phạm trù triết học trừu tượng, siêu hình, thú thật tôi cũng không hiểu ông ta định nói gì, xin ghi lại đây để độc giả tham khảo:

“Câu đầu, Nguyễn Bình Khiêm đưa ăn lên trên và đặt song trùng: ăn (măng)// ăn (giá). Đấy là hình nhi hạ. Câu sau, thi nhân vẫn dùng phương pháp sóng đôi: tắm (hồ)// tắm (ao). Đây mới là hình nhi thượng. Hai câu luận song song đối nhau. Nhưng ngay trong mỗi câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chặt đôi: hình nhi thượng trước (măng trúc)// hình nhi hạ sau (giá). Măng trúc do trời ban, thiên nhiên ban; còn giá bởi con người vất vả làm ra. Câu sau vẫn lối cấu trúc: Hình nhi thượng trên - hồ sen do ông xanh tạo hóa, ông ban cho được tắm hương trời; mà nếu, ông xanh không cho thì vui vẻ trở về tắm ao (cũng có thể tắm ao tù) - Hình nhị hạ dưới. Con người tự làm, chẳng phái đội Thiên tử (!).”

Trở lại chữ giá mà tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên đề cập đến trong bài viết của mình chúng tôi xin có ý kiến như sau: Trong cấu trúc chữ Nôm có một loại đọc theo âm Hán - Việt nhưng không lấy nghĩa mà chỉ lấy âm. Chẳng hạn một số câu trong Truyện Kiều:

Trăm năm trong cõi người ta (些)

Trải qua (戈) một cuộc bể dâu

Tà tà bóng ngả (我) về tây

Đi đâu (兜) chẳng biết con người Sở Khanh

Chữ ta (些) tiếng Hán có nghĩa là ít, một ít, chữ qua (戈) là một binh khí ngày xưa; ngã (我) là ta, tôi; đâu (兜) cái mũ ngày xưa lúc ra trận; nghĩa của những chữ Hán trên đây không liên quan gì đến nội dung câu thơ, mà chủ yếu là mượn âm đọc.

Chữ giá (蔗, 稼) mà ông đề cập đến trong bài viết cũng thuộc loại này, cho nên không thể hiểu câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Thu ăn măng trúc, đông ăn mía hay ăn mạch nha được, mà chỉ có một cách đọc và hiểu duy nhất là Thu ăn măng trúc, đông ăn giá (giá đỗ) và lại càng không thể hiểu là băng giá hay nước đá như ông đã phân tích.

Chữ Nôm của các cụ trước đây chưa được điển chế và qui chuẩn hóa, nên một âm có thể viết được nhiều cách tùy trình độ từng người, một chữ cũng có thể được đọc khác nhau, tùy theo từng văn cảnh cụ thể và cảm nhận của từng người, chẳng hạn như chữ nghỉ/nghĩ, nêm/nen, nét ngài/nét người... trong Truyện Kiều.

Một điều đng chú ý nữa là khi thưởng thức văn chương trung đại, ta không nên phân tích quá tỉ mẩn theo con mắt của nhà khoa học hiện đại, như có người đã cố đi tìm cho được hệ đo lường của Trung Quốc thời xưa để xác định chiều cao của Từ Hải trong Truyện Kiều. Măng trúcgiá trong câu thơ, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ muốn đề cập đến những món ăn dân dã, quê kiểng và cái thú tắm ao, tắm hồ ở nông thôn khi cụ về ở ẩn tìm thú an nhàn thế thôi, chứ cụ đu có suy nghĩ theo kiểu hàn lâm ăn măng/ăn giá là hình nhi hạ, tắm hồ/tắm ao là hình nhi thượng (!) hay đi câu với lưỡi câu thẳng như người ta đã gán cho cụ.


[1]Xin xem bài đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 4/2009 của Nguyễn Đăng Na có nhan đề Về bài thơ số 79 của Nguyễn Bỉnh Khiêm


Nguồn: Thế Anh - VHNA






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.