Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.
Nhà văn Nguyễn Thi và tác phẩm
“Những đứa con trong gia đình” cũng mang trong mình khát vọng khái quát ấy.
Trong Những đứa con trong gia đình, ý thức được vai trò là người truyền lửa, chú Năm đã từng nhắn nhủ hai chị em: Câu chuyện của gia đình chúng ta cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Mà con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm phù sa, nhiều nước bạc. Ruộng đồng mát mẻ sinh ra từ đấy, lòng tốt con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đều đổ về một biển. Con sông gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm, rộng bằng cả nước ta và ngoài nước ta. Đằng sau đó, chú Năm dường như muốn gửi gắm tới hai chị em Việt và Chiến một thông điệp lớn hơn: Mỗi thế hệ đều phải gánh vác trách nhiệm với gia đình, với non sông đất nước. Cuộc trường chinh đánh Mĩ còn dài, còn gian khổ. Đó phải là cuộc chạy tiếp sức không ngừng nghỉ từ đời cha ông đến lớp lớp thế hệ cháu con.
Cao hơn thế, nhà văn Nguyễn Thi còn muốn khơi gợi lên ở người đọc về một tư tưởng mang tầm vóc khái quát: Câu chuyện về gia đình hai chị em Chiến và Việt thực chất là của tất cả các gia đình Nam Bộ trong chiến tranh. Đau thương, mất mát là cái hiện hữu trong từng ngôi nhà, miệt vườn, thôn xóm nhưng người dân miền Nam vẫn sống, chiến đấu kiên cường để làm nên truyền thống của mảnh đất Thành đồng Tổ quốc. Như dòng sông vươn mình ra biển cả, những con người trong gia đình Việt và Chiến luôn có ý thức kế tiếp dòng chảy truyền thống, viết tiếp những trang sử vẻ vang cho gia đình.
Hình ảnh biển cả trong câu nói của chú Năm đã trở thành biểu tượng cho Tổ quốc, dân tộc. Trong chiến tranh, số phận cá nhân gắn bó chặt chẽ, khăng khít với số phận của cộng đồng, dân tộc. Vì thế, Những đứa con trong gia đình dù chỉ viết về một câu chuyện gia đình với cuốn sổ ghi chép truyền thống nhưng nó gợi cho người đọc liên tưởng tới cả đất nước, dân tộc. Truyện viết về một dòng sông nhưng lại gợi liên tưởng tới biển cả. Truyện kể về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được một đất nước, một dân tộc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ trong chính những đau thương, mất mát!
Trở lại chiến khu. Ảnh tư liệu
Những con người xuất hiện trong Những đứa con trong gia đình đều thực sự là khuôn mặt ưu tú soi bóng cho cả thế hệ trẻ miền Nam thời đánh Mĩ. Chiến và Việt ra trận bằng sức mạnh sinh ra từ trong chính những đau thương, mất mát; từ lòng căm thù giặc và khao khát lập công để trả thù cho ba má, quê hương. Họ thực sự là những con người anh hùng của một thời máu lửa, sẵn sàng dàn hàng ngang gánh đất nước trên vai trong cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc. Lời nói khẳng khái của Chiến trước lúc lên đường ra mặt trận: Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái, ra đi tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à! là lời thề quyết tâm, sắt đá mà cô đã tự hứa với lòng mình. Cô gái ấy ra trận bằng ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù, bằng ý thức sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Việt cũng vậy. Trước lời căn dặn của chị Chiến: Chú Năm bảo, tao với mầy ra đi kì này là ra chân trời mặt bể. Xa nhà thì ráng học chúng, học bạn. Thù nhà chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu, Việt chỉ lăn kềnh ra ván, cười khì khì và bảo: Chị có bị chặt thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị. Việt chỉ nói ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát bởi trong anh không bao giờ xuất hiện tư tưởng hèn nhát, run sợ trước kẻ thù. Ý chí ấy được tôi luyện từ khi còn nhỏ, lúc Việt đã dám đá vào chân thằng giặc chặt đầu ba mình bằng lòng căm thù dữ dội. Với Việt, ra trận là để chiến đấu, lập chiến công trả thù cho ba má, quê hương. Bởi vậy, Việt và Chiến thực sự là những biểu tượng hào hùng cho những con người miền Nam: Đảm đang, tháo vát mà kiên cường, dũng cảm; hồn nhiên, vô tư mà rất nặng nghĩa, nặng tình. Ở họ, lòng căm thù sâu sắc tội ác của kẻ thù đã trở thành những suy nghĩ, những hành động quyết liệt. Họ thực sự là những con người anh hùng đang đứng lên viết tiếp bản hùng ca của một thời đánh Mĩ!
Ảnh tư liệu
Giọng điệu bao trùm truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là những lời thề dữ dội. Thuở còn sống, má Việt đã từng nói với anh: Để tao ráng nuôi cho bay khôn lớn xem bay có làm được gì cho ba mày vui không! Chú Năm, người thân duy nhất còn lại của hai chị em cũng đã từng nói với Việt và Chiến: Câu chuyện gia đình ta cũng dài như sông. Để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó! Đó thực sự là những lời nhắn nhủ, nhắc nhở, dặn dò, giao nhiệm vụ của những thế hệ đi trước để lại cho lớp lớp cháu con.
Ý thức rõ điều đó, trong tâm thức của cả hai chị em luôn có một ý nghĩ thường trực: Phải đi bộ đội để trả thù cho ba má, quê hương và gia đình. Với họ, ý nghĩ, hành động đều dứt khoát, rõ ràng bởi cả hai chị em đều ý thức rất rõ về vai trò và trách nhiệm của thế hệ mình. Vì vậy, nhà văn Nguyễn Thi đã để cho Việt và Chiến nói rất ngắn gọn, dứt khoát. Họ đã thề, đã sống và chiến đấu xứng đáng với niềm mong mỏi, gửi gắm từ các thế hệ cha ông: Chiến đã trở thành tiểu đội trưởng tiểu đội nữ dân quân du kích Bến Tre. Còn Việt đã trở thành một anh giải phóng quân chiến đấu dũng cảm, lập được chiến công xuất sắc.
Trong cuộc chiến đấu ác liệt với quân thù, dù bị thương nặng, bị lạc đồng đội, nằm lại một mình giữa chiến trường, giữa bốn bề quân giặc, Việt cũng không bao giờ rời tay súng, hết sức bình thản và không hề run sợ trước kẻ thù. Hình ảnh ba má, gia đình, chị Chiến và lời thề quyết tâm vào cái đêm trước lúc lên đường ra mặt trận đã giúp cậu có thêm sức mạnh để chờ đợi giây phút quyết liệt nhất của đời mình, giây phút sống chết với kẻ thù xâm lược. Một lần nữa, âm hưởng của những lời thề lại xuất hiện: Trên trời có mày, dưới đất cũng có mày, cả khu rừng này chỉ có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Mày chỉ giỏi giết gia đình tao còn với tao, mày chỉ là thằng chạy...
Đằng sau những lời thề quyết liệt và dữ dội ấy, nhà văn Nguyễn Thi muốn ca ngợi những con người anh hùng của mảnh đất miền Nam. Ông đã tập trung tất cả bút lực của mình để khắc họa hình tượng Việt và Chiến và không khí thiêng liêng của buổi sáng hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang gửi nhà chú Năm trước lúc lên đường ra trận. Trong khoảnh khắc ấy, hai chị em đã tự hứa với lòng mình: Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Những dòng văn thiêng liêng và cảm động ấy thể hiện cho niềm tin của nhà văn Nguyễn Thi về tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông tin vào những thế hệ đi sau như Việt và Chiến sẽ đủ sức gánh vác, tiếp bước nhiệm vụ mà biết bao lớp người đi trước vẫn còn dang dở. Họ sẽ đủ sức đẩy dòng sông gia đình đi xa hơn, hòa vào biển cả rộng lớn của đất nước và nhân dân!
Theo Minh Châu - GD&TĐ
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.