Bản công-xéc-tô vĩnh biệt

16:39 22/07/2009
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

J.C Guillebaud - Ảnh: paperblog.fr

Thoạt tiên đó là một trò chơi, một câu pha trò chẳng có tác dụng gì khác hơn là khiến Raymond và tôi mỉm cười. Chúng tôi mang theo trong hành lý của mình bản Công-xéc-tô vĩnh biệt của Georges Delerue, bản nhạc được sáng tác cho cuốn phim Điện Biên Phủ của Pierre Schoendoerffer. Cuốn phim vừa được công chiếu vào thời điểm chúng tôi lên đường sang Việt Nam. Trong rạp chiếu phim góc phố Odéon, nơi tôi đến xem một mình, những hạt nước mắt của tôi đã tuôn ra, đột nhiên và bất ngờ đến mức tôi phải đợi một lúc sau khi cuốn phim kết thúc mới có thể bước ra đại lộ Saint-Germain. Hai mắt tôi đỏ hoe, thật là ngốc. Tôi hơi xấu hổ về cảm xúc đột ngột đã thắt nghẹn cổ họng tôi đó. Tôi không kể lại cho những người chung quanh nghe về việc này. Tôi đã tỏ vẻ thư thái khi nói rằng cuốn phim "không tệ" mặc dù hơi "máy móc trong kết cấu". Nhưng rồi tôi đã nhanh chóng đi mua cuốn băng nhạc gốc của phim.

Điều đó diễn ra hai ngày trước khi tôi lên máy bay. Tôi đã nhét vào va li của mình cuốn băng vừa thoáng nghe qua đó.

Toàn bộ câu chuyện bắt đầu trước khi đến Đà Lạt một chút. Chúng tôi đã tạm dừng chân trong một ngôi làng và gọi trà đá ở hiên một quán giải khát nhỏ làm bằng tre. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế thủ công thấp như ghế búp bê. Những chiếc xe bò và những hàng xe đạp đi trên đường ném về phía chúng tôi những đám mây bụi đỏ. Nhiều người dừng lại để nhìn chòng chọc vào mặt chúng tôi. Từ bao lâu rồi họ không nhìn thấy những du khách phương Tây? Như thường lệ, một máy cát xét to tướng đang hoạt động ầm ĩ làm chúng tôi đến vỡ tai. Những thanh niên trong quán tưởng sẽ làm chúng tôi thoả mãn khi cho phát những bài hát Mỹ và nhạc hard rock. Những tiếng kèn bát dội vào lồng ngực chúng tôi như những cú đấm. Thật đinh tai và khó chịu.

Khi đó, tôi đã nhớ đến cuốn băng nhạc của Delerue đang ở trong hành lý của mình. Tôi đi lấy nó và đưa cho những thanh niên trong quán giải khát với vẻ quyền uy. Ngay tức khắc, họ tắt cái thứ musica đáng ghét của họ để mở bản nhạc của riêng tôi. Chính lúc đó, và chỉ vào lúc đó mà thôi, chúng tôi mới hiểu ra vì sao quang cảnh đó lại mang một vẻ khác thường. Chúng tôi là hai người Pháp đang ở ngay trong lòng đất nước Việt Nam và chúng tôi đang lắng nghe đến đinh tai nhức óc, ngay ở trung tâm một ngôi làng Lang Bian, cuốn băng nhạc gốc của phim Điện Biên Phủ, điệp khúc ám ảnh với những khúc đoạn đọc tấu vĩ cầm đã nhịp theo những bước chân của đạo quân viễn chinh đi dần xuống địa ngục.

Dĩ nhiên đám thanh niên hỏi tôi cái âm nhạc kỳ lạ, khác một cách cơ bản đến như thế với nhạc trống của họ là thứ âm nhạc nào. Tôi gợi ý để bà D. (1) giải thích rõ ràng cho họ biết đó là nhạc gì. Tôi ngóng xem họ phản ứng ra sao. Một vẻ nghiêm trang, cái gật đầu ra vẻ thấu đáo, vẻ chăm chú rõ ràng là trân trọng. Thật ra, thì chẳng có gì là thật rõ rệt. Nụ cười khô cứng của họ đúng ra có ý nghĩa gì? Họ có biết ơn chúng tôi hay không về việc chúng tôi đã lắng nghe trước mặt họ âm nhạc biểu trưng cho một thắng lợi của đất nước Việt Nam? Hay ngược lại họ đánh giá là thật khó chịu khi phải cùng những người nước ngoài nghe nhắc lại một sự kiện "anh hùng" đã từng được các nhà tuyên truyền cộng sản triệt để khai thác? Tôi không hiểu được một chút nào về chuyện ấy. Ở Việt Nam, nụ cười có khi còn bí hiểm hơn cả sự im lặng.

Kể từ "buổi diễn đầu tiên" đó ở gần Đà Lạt, Raymond và tôi đã không ngừng nghe bản nhạc Công-xéc-tô vĩnh biệt, từ chặng dừng này đến chặng dừng khác, với cảm giác đang tiến hành một công cuộc tìm kiếm. Chúng tôi mở băng nhạc của mình ở những nơi chốn quá đáng nhất: bên thềm khách sạn Thống Nhất ở Phan Rang, trong một quán cóc dọc trên đường đến Qui Nhơn, trong nhà hàng của Khách sạn Vĩnh Đông ở Nha Trang, ở một quán cà phê lộ thiên ở Đà Nẵng... Mọi người im lặng để lắng nghe, có khi còn mỉm cười với chúng tôi. Việc đó bây giờ đã trở thành thông lệ. Khi tôi quên việc hành lễ đó, thì Raymond, với vẻ gần như nhạo báng, lại nhắc tôi trở lại với công việc: "Mang băng cát xét ra đi!" Tất nhiên là chúng tôi nói đùa: "Cuối cùng rồi cả nước Việt Nam sẽ nghe bản nhạc này." Nhưng "trò chơi" đó thực ra không vô tư đến thế.

Tôi lên mười tuổi khi đồn trấn thủ ở Điện Biên Phủ bị đánh bại. Ở khu nội trú Villard-de-Lans, người ta đã tập trung tất cả các lớp trong phòng ăn để dành một phút mặc niệm. "Hôm nay là một ngày tang tóc cho nước Pháp.", ông Hiệu trưởng nói. Chúng tôi không hiểu rõ lắm đó là chuyện gì nhưng, là con em của những người lính, theo bản năng tôi cũng đã khóc. Và khóc thật lâu. Đối với tôi từ ngữ "tang tóc cho nước Pháp" là không đảo ngược được. Thế rồi, năm tháng trôi qua, tôi đã chôn vùi kỷ niệm đó trong sâu thẳm lòng mình. Tuy vậy, sau đó, khác với những người chung quanh, tôi đã không bao giờ chịu đựng được thái độ chống quân sự cợt nhã của những năm sáu mươi và bảy mươi, sự khinh thị của những "nhà chính trị", vẻ châm chọc của những trí thức thực ra là những người thân thuộc của tôi. Có cái gì đó trong tôi đã khiến tôi đứng về phía những người đã trả giá sòng phẳng cho những niềm tin của mình. Một thái độ khoan dung đối với những người lính, ngay cả khi họ thất trận, tràn ngập trong tôi khiến tôi không thể ghét bỏ những kẻ bất tài và sự ngu ngốc của các đội quân đồn trú. Nhưng tôi không thích ai mai mỉa về sự bí hiểm của chiến tranh, có thế thôi. Điều đó không khớp lắm với phần còn lại của cuộc đời tôi. Thây kệ. Tôi đã phải sống thích nghi, bằng mọi giá, với "mâu thuẫn" đó. Có lẽ tôi trở thành nhà báo là để giải quyết mâu thuẫn đó theo cách của mình: vừa ở phía bên này lại vừa ở phía bên kia; dùng ngôn từ nhưng gần với sự việc; quen thuộc với các bài diễn văn, nhưng cũng không xa những hạt nước mắt.

Tôi thường vấp phải sự nhập nhằng đó vào những năm bảy mươi ở Sài Gòn, khi tôi thực sự bước vào một cuộc chiến tranh.

Từ khi trở lại Việt Nam, tôi hiểu rõ hơn vì sao tâm hồn tôi đã bị xáo trộn đến nhường ấy khi xem phim Điện Biên Phu. Không chỉ do tính cách thống thiết của sự chiến bại, nỗi xé lòng của cảnh quy hàng và sự khiếp sợ của những binh đoàn hàng quân. Được quay ngay tại Việt Nam, với sự tham gia của quân đội cộng sản và những cựu "Việt Minh", cuốn phim mong muốn được là bản phác thảo của những cuộc tìm gặp lại diễn ra ở bên ngoài Lịch Sử, một cánh tay từ chiến tuyến này chìa sang chiến tuyến kia. Chỉ với sự hiện hữu của mình, nó cũng chứng minh được rằng con đường đó là có thể áp dụng được. Ít ra thì tôi cũng đã tiếp nhận nó như thế. Thế là, tự dưng hai nửa của tôi dường như có thể gặp lại nhau. Người ta có thể khóc lên được vì những điều nhỏ nhoi hơn thế...

Thế là từ Đà Lạt trở đi, chúng tôi không thôi giám sát phản ứng của người Việt Nam. Nhưng sự mong đợi, sự nóng lòng đó không thật phải lẽ. Trong khi vội vã chúng tôi đã quên mất điều cốt yếu. Ý tưởng đó chợt đến với tôi khi tôi khám phá ra một vẻ buồn chán trên mặt hai cô bé phục vụ tại khách sạn Điện Lực ở Đà Nẵng. Điều cốt yếu, chính là bề dày không lường được của thời gian trôi qua. Nói tóm lại, chúng tôi đã không cưỡng lại được trước căn bệnh ảo giác muôn thuở của người du khách, đó là: khi tạm dừng chân ở nơi nào đó trên thế giới, chúng ta đã làm như thể thời gian "địa phương", một thứ công cụ tiền tệ không chút giá trị, đã dừng lại khi chúng ta ra đi và hoạt động trở lại ngay ở thời khắc chúng ta quay về đó. Chúng ta đã phản ứng như thể Lịch Sử ngưng bước ở những đất nước mà chúng ta rời xa và chờ đến lúc chúng ta trở về để tiếp tục dòng chảy của nó. Như thể là thế giới chờ đợi được chúng ta bình chọn để có thể thực sự tồn tại, như Châu Mỹ đã đợi đến lúc được Colomb khám phá để có thể là Châu Mỹ. Tội lỗi xưa cũ của Châu Âu, mánh khoé của lòng kiêu hãnh và của việc du hành...

Bằng chứng là tôi đã cần một nỗ lực tư duy và một thao tác tính nhẩm trước khi nhận ra điều này: đối với những thanh niên Việt Nam, trận chiến Điện Biên Phủ cũng lùi xa trong quá khứ như trận chiến Verdun đối với chúng tôi, khi chúng tôi ở vào độ tuổi của họ. Chẳng là gì khác hơn một ngày tháng được đưa vào sách giáo khoa, giai đoạn đã nguội lạnh của một bài lịch sử được học nằm lòng ở trường. Vào tuổi hai mươi, chúng tôi có xúc cảm gì đâu, khi được nghe kể về những người lính của thế chiến thứ nhất, ở các trận Éparges hay Chemin des Dames?

Sự thật, thì những người Việt Nam chúng tôi đã gặp trên đường chẳng có gì đáng để nói về bản nhạc Công-xéc-tô vĩnh biệt của chúng tôi. Hãy cứ cho là họ bất cần đi. Và như thế cũng là tốt.

Phạm Thị Anh Nga dịch
(La Colline des Anges - “Cồn Tiên”, 1992)
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.