Ảnh: sachxua.net
LÊ QUANG THÁI BÀI HỌC LỊCH SỬ QUÝ GIÁ TỪ VÈ THẤT THỦ KINH ĐÔ Nói vè, không phải đơn thuần bán buồn mua vui. Đây còn là dịp để hậu duệ tưởng nhớ và tri ân người xưa, nghe được tiếng lòng dân tộc, cảm được hồn nước lung linh và tờ mờ ẩn tàng vô hình, vô tướng theo cùng với vận nước có lúc thịnh lúc suy. 1) Người Việt biết liên kết giàu sáng tạo, hài hòa trong sáng tạo tập thể: Không phải chỉ giới văn nhân tài tử, nghệ sĩ ca công sáng tạo theo lối chuyên nghiệp, chuyên ngành mà bất cứ ai cũng có thể sáng tác, sáng tạo thi ca, hò vè là những thể tài văn học mang đậm tính cách đại chúng và dân dã. Vượt xa hơn trong sáng tác là tinh thần tổng hợp một cách hòa điệu những câu ca, lời vè, nói lối nhuần nhuyễn thành từng đoạn bài ngắn, nhiều bài ngắn được kết dệt thành khổ, thành trang, thành tuồng, thành tích. Không có tinh thần văn nghệ và yêu chuộng nghệ thuật thì chẳng bao giờ quảng đại quần chúng có những lớp vè trường thi bằng thơ lục bát và biến thể phá cách của thể thơ thuần túy Việt Nam như hai bài vè lịch sử phản ảnh sinh mệnh, hơi thở và cuộc sống, cuộc chiến đấu anh hùng và bi thương của dân tộc ta từ những năm 1883 đến 1885 và những năm tháng khó quên về sau nữa. “Tứ nguyệt tam vương” rồi thất thủ Kinh đô Huế, vua Hàm Nghi xuất bôn. Giữa đường tên mũi đạn, người Việt làm thơ, trong tháo chạy hốt hoảng mà vẫn làm thơ, thậm chí lúc ở bên bờ sinh tử, cấp táng vội vàng vẫn có thơ làm niềm tin gởi lại cho đời. Thơ để tiếc thương, tiễn biệt người thân cùng huyết thống cùng chí hướng và đồng hội đồng thuyền thể hiện tinh thần bất khuất, nuôi dưỡng ý chí quật cường. Cho dù gặp cảnh bi thương cùng cực, người Việt vẫn giữ tròn đạo trung hiếu: “Trung thần hết sức phò vương, Chừ ngài bạc phận giữa đường không ai.” (câu 904 - 905, Hồi II) hoặc: “Hãy còn có mặt mầy đây, Thành đô khôi phục nhớ ngày quảy đơm Ví dầu dĩa muối bát cơm, Cô dì thúc phụ quảy đơm (cho) nhớ ngày.” (câu 939 - 942, Hồi II) Phải là người trong cuộc, chứng nhân thời loạn mới có những tình tiết đầy bi thương ấy. Có thực sống trong khoảnh khắc bi lụy thì mới nẩy sinh những ý tưởng truyền lại như là di chúc thiêng liêng để lại cho con cháu và cho cả khe rừng nghe mà ghi nhớ, hòa nhập vào hồn nước non nặng nghĩa lời thề son sắt. Hàng trăm, hàng nghìn tình tiết ấy, tương tự như thế được kết dệt lại thành một thể thống nhất, liên hoàn đầy tính cách bi ai, chịu khốn khổ và kham nhẫn đến mức cùng cực. Người viết sử, nhà làm phim, nhà đạo diễn tài hoa nào tìm thấy được những tình tiết ấy, những thước phim ấy thì thiết tưởng họ tôn quí biết chừng nào về phẩm chất cao quý của người Việt. 2) Ngôn ngữ dân gian phong phú, trung thực tổng hòa với ngôn ngữ cung đình, tao đàn và hàn lâm. “Ca” là thể tài văn học đi sánh đôi cùng với “vè” để biểu lộ tâm tư, tình cảm, ý chí, niềm hy vọng, niềm tin yêu. Ngôn ngữ của vè mang tính dân gian trung thực, chất phác. Vì vậy rõ nét hơn, lấn lướt cả thi ca về vốn ngôn từ của vè dân dã mộc mạc mà cũng không kém phần thâm hậu. - Viết về thảm cảnh chiến tranh: “Khói lên hình tựa long phi, Đạn ra ngoài biển trúng gì chẳng hay. Tây bắn (vô) người lọi chân (kẻ lọi) tay, Bể đầu lủng ruột khổ này quân ta.” (câu 199 - 202, Hồi I) - Hoặc viết về cảnh quân thù đày đọa dân lành vô tội: “Ngày thời nó điệu như tù, Đụng đâu (nó) đánh đấy, nổi u nổi nần. Ngùi ngùi thân lại tủi thân, Ngày bắt đi mần đêm bỏ thảm thương. Bữa ăn bữa uống không thường, Một ngày bát gạo, cơm lương muối vừng. Lo ăn lo uống cho xong Ăn kẻo đói lòng, ăn kẻo chết khô. Bao nhiêu những giếng với hồ Kéo thây xuống dập chỗ mô cũng đầy.” (câu 501 - 510, Hồi II) - Quân dân vẫn nuôi dưỡng niềm tin phục hận, phát huy nội lực: “Phò theo dọi đức Hàm Nghi, Quan Tướng với quan Đề Soạn, với thì quan Đề Ngô. Ngũ trụ có quan lớn Hữu Hồ, Ngài làm Thị vệ thủa mô tới chừ. Chẳng qua Nam Việt thời hư, Quân thần phụ tử lên chừ rừng xanh. Thở than trong chỗ rừng xanh, Bao giờ khôi phục chốn thành kinh đô.” (câu 837 - 844, Hồi II) Các tác giả vô danh chung cùng tiếng nói, tiếng gọi đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, tất cả đều chung tâm tư và chí hướng mới sáng tạo được những vần thơ vừa trữ tình vừa hiện thực đến mức cao điểm như vậy. Văn chương cung đình - hàn lâm không tách biệt xa rời văn chương dân gian chơn chất, nặng tình nặng nghĩa với non sông cẩm tú. Ước gì ngày nay những nhà sử học, những đạo diễn sân khấu nghệ thuật, nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử sẽ từ đó xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật để giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự do dân tộc cho thế hệ trẻ được sinh trưởng và thành tài trong cảnh đất nước thanh bình. 3) Phân hóa, chia rẽ là quỷ kế của giặc, thống nhất ý chí và đoàn kết một lòng chóng vượt qua mọi thảm họa. Sau ngày mất của Tự Đức, trong lịch sử đã diễn ra nhiều tấn tuồng điên đảo tạo lợi thế cho quân xâm lược hả hê lấn sâu thị uy triều đình Huế sớm trao quyền bảo hộ cho ngoại bang. Đọc và học lịch sử giai đoạn bốn tháng ba vua (tứ nguyệt tam vương), ai mà chẳng đau lòng quặn thắt cho vận nước điêu linh vì thù trong giặc ngoài mà ca dao lưu truyền. Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường (Một sông hai nước khôn ăn nói Bốn tháng ba vua việc chẳng lành) mà vè thất thủ Thuận An đã mạnh dạn đả kích ở câu 47 - 48 của Hồi I: “Mặc lòng hai gã quyền hành Muốn cho ai loại ai thành thì cho” Ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc lần lượt bị loại trừ với nhiều mưu đồ, tính toan bất chính của ông Quận Tường và ông Tướng Thuyết: “Thánh hoàng ngài mới băng hà, Những tham với cách vậy mà tứ tung.” (câu 65 - 66, Hồi I) Những quan lại trung chính, hiền lương như Phan Đình Phùng, Trần Tiễn Thành đều lần lượt bị ám hại: “Đáo để (cho) ông Phan Đình Phùng, Nói lời trung nghĩa mắc vòng gian lao.” (câu 43 - 44, Hồi I) Tướng tài như quan Tiểu phủ sứ Ông Ích Khiêm cũng bị đày bị hại trong lao tù chốn biên viễn thuộc tỉnh Bình Thuận. Quyền thần lộng hành, ai có đề nghị trái ý thì nghi kỵ, tìm cách đốn đi khác nào đốn cây một cách vô cảm, không nương tay. Quả thật, quyền thần tự chặt tay chân của mình: “Chớ cho lai vãng trong trào, Cưỡng ngôn nghịch lý, phản phao tới mình. Quan Tiểu mắc phải vầy binh, Người trung mắc nạn, lý hình tà gian.” (câu 237 - 240, Hồi II) Việc hai vua Dục Đức và Hiệp Hòa bị ám hại có bài bản rồi vua Kiến Phúc kế vị cũng bị “trúng thuốc” một cách bất ngờ làm cho tình cảnh trong dân gian thêm hoang mang, rối rắm trăm đường. Mây mù đã che ám cả bầu trời kinh đô phủ đầy oán cừu, tang tóc: “Giáp Thân lục nguyệt bằng nay, Vừa đức Kiến Phúc tuần này thăng thiên. Bá quan văn võ phân phiền, Giận trong nhà nước không yên bề gì. Hội triều tôn đức Hàm Nghi, Ngài lên trị vì ai cũng cần yên.” (câu 287 - 292, Hồi II) Tình thế đã bi đát lại càng bi lụy thê thảm hơn chỉ vì nội tình triều đình Huế suy vi dễ dàng dẫn đến suy vong, mất nước không chóng thì chầy. Nhân dân khó lòng lay chuyển được tình thế bất an, khốn khổ đến mức trầm trọng. Xưa, danh thần Nguyễn Trãi đã dâng hiến cho đời bài học nhân nghĩa, thu phục tâm công để toàn dân quân đoàn kết một lòng thực thi chủ trương lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thừa lúc diệt mạnh. Cả một tình trạng phân hóa và đầy u ám trong triều chính đương thời như thế thì con đen dân đỏ làm sao hiến kế hy sinh để chống giặc. Thù trong chưa dẹp yên thì làm sao mà diệt được giặc ngoài có tàu đồng, đại bác tân tiến. Bài học phát huy nội lực, thu phục tâm công và đoàn kết một lòng đã bị xé nát tan tành. Việc bỏ quên thù riêng để chung sức lo hận chung mất nước chỉ lóe sáng trong việc đồng tình giữa Phan Đình Phùng với ông Tướng ngày xưa ở sơn phòng Hà Tĩnh, khó lòng xoay chuyển được tình thế. Ấy là chưa kể việc thực dân Pháp nắm quyền đối ngoại với 2 hiệp ước bất bình đẳng: Hòa ước Harmand và Hòa ước Patenôtre. Cái giá phải đổi cho cuộc chiến đấu anh dũng và bi thương của dân tộc Việt là nước mất nhà tan khiến cây cỏ cũng nhuốm màu tang thương: Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương. (Khuê phụ thán - Thượng Tân Thị) Hoặc như Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã cảm xúc trong bài thơ “Cảnh mới nhà Thương Bạc”: Giảng hòa mực ký xong hai chữ/ Bảo hộ cờ treo đã sáu đời. Cuối cùng với ý chí quật cường của dân tộc đã thôi thúc những nhà cách mạng tiền bối và thời cận đại sớm tìm ra kế sách giữ nước, chống trả quân thù để giành lại quyền tự quyết và độc lập dân tộc - một dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất với dáng đứng oai hùng bên bờ biển cả Thái Bình dương. L.Q.T (255/5-10) |
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.