Bài học lịch sử quý giá từ vè thất thủ kinh đô

14:57 28/05/2010
LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

Ảnh: sachxua.net

LÊ QUANG THÁI


BÀI HỌC LỊCH SỬ QUÝ GIÁ
TỪ VÈ THẤT THỦ KINH ĐÔ


Nói vè, không phải đơn thuần bán buồn mua vui. Đây còn là dịp để hậu duệ tưởng nhớ và tri ân người xưa, nghe được tiếng lòng dân tộc, cảm được hồn nước lung linh và tờ mờ ẩn tàng vô hình, vô tướng theo cùng với vận nước có lúc thịnh lúc suy.

1) Người Việt biết liên kết giàu sáng tạo, hài hòa trong sáng tạo tập thể:

Không phải chỉ giới văn nhân tài tử, nghệ sĩ ca công sáng tạo theo lối chuyên nghiệp, chuyên ngành mà bất cứ ai cũng có thể sáng tác, sáng tạo thi ca, hò vè là những thể tài văn học mang đậm tính cách đại chúng và dân dã. Vượt xa hơn trong sáng tác là tinh thần tổng hợp một cách hòa điệu những câu ca, lời vè, nói lối nhuần nhuyễn thành từng đoạn bài ngắn, nhiều bài ngắn được kết dệt thành khổ, thành trang, thành tuồng, thành tích.

Không có tinh thần văn nghệ và yêu chuộng nghệ thuật thì chẳng bao giờ quảng đại quần chúng có những lớp vè trường thi bằng thơ lục bát và biến thể phá cách của thể thơ thuần túy Việt Nam như hai bài vè lịch sử phản ảnh sinh mệnh, hơi thở và cuộc sống, cuộc chiến đấu anh hùng và bi thương của dân tộc ta từ những năm 1883 đến 1885 và những năm tháng khó quên về sau nữa. “Tứ nguyệt tam vương” rồi thất thủ Kinh đô Huế, vua Hàm Nghi xuất bôn. Giữa đường tên mũi đạn, người Việt làm thơ, trong tháo chạy hốt hoảng mà vẫn làm thơ, thậm chí lúc ở bên bờ sinh tử, cấp táng vội vàng vẫn có thơ làm niềm tin gởi lại cho đời. Thơ để tiếc thương, tiễn biệt người thân cùng huyết thống cùng chí hướng và đồng hội đồng thuyền thể hiện tinh thần bất khuất, nuôi dưỡng ý chí quật cường. Cho dù gặp cảnh bi thương cùng cực, người Việt vẫn giữ tròn đạo trung hiếu:

“Trung thần hết sức phò vương,
Chừ ngài bạc phận giữa đường không ai.”
                        (câu 904 - 905, Hồi II)
hoặc:
“Hãy còn có mặt mầy đây,
Thành đô khôi phục nhớ ngày quảy đơm
Ví dầu dĩa muối bát cơm,
Cô dì thúc phụ quảy đơm (cho) nhớ ngày.”
                        (câu 939 - 942, Hồi II)

Phải là người trong cuộc, chứng nhân thời loạn mới có những tình tiết đầy bi thương ấy. Có thực sống trong khoảnh khắc bi lụy thì mới nẩy sinh những ý tưởng truyền lại như là di chúc thiêng liêng để lại cho con cháu và cho cả khe rừng nghe mà ghi nhớ, hòa nhập vào hồn nước non nặng nghĩa lời thề son sắt.

Hàng trăm, hàng nghìn tình tiết ấy, tương tự như thế được kết dệt lại thành một thể thống nhất, liên hoàn đầy tính cách bi ai, chịu khốn khổ và kham nhẫn đến mức cùng cực. Người viết sử, nhà làm phim, nhà đạo diễn tài hoa nào tìm thấy được những tình tiết ấy, những thước phim ấy thì thiết tưởng họ tôn quí biết chừng nào về phẩm chất cao quý của người Việt.

2) Ngôn ngữ dân gian phong phú, trung thực tổng hòa với ngôn ngữ cung đình, tao đàn và hàn lâm.

“Ca” là thể tài văn học đi sánh đôi cùng với “vè” để biểu lộ tâm tư, tình cảm, ý chí, niềm hy vọng, niềm tin yêu. Ngôn ngữ của vè mang tính dân gian trung thực, chất phác. Vì vậy rõ nét hơn, lấn lướt cả thi ca về vốn ngôn từ của vè dân dã mộc mạc mà cũng không kém phần thâm hậu.

- Viết về thảm cảnh chiến tranh:
“Khói lên hình tựa long phi,
Đạn ra ngoài biển trúng gì chẳng hay.
Tây bắn (vô) người lọi chân (kẻ lọi) tay, Bể đầu lủng ruột khổ này quân ta.”
                                    (câu 199 - 202, Hồi I)

- Hoặc viết về cảnh quân thù đày đọa dân lành vô tội:
“Ngày thời nó điệu như tù,
Đụng đâu (nó) đánh đấy, nổi u nổi nần.
Ngùi ngùi thân lại tủi thân,
Ngày bắt đi mần đêm bỏ thảm thương.
Bữa ăn bữa uống không thường,
Một ngày bát gạo, cơm lương muối vừng.
Lo ăn lo uống cho xong
Ăn kẻo đói lòng, ăn kẻo chết khô.
Bao nhiêu những giếng với hồ
Kéo thây xuống dập chỗ mô cũng đầy.”
                                    (câu 501 - 510, Hồi II)

- Quân dân vẫn nuôi dưỡng niềm tin phục hận, phát huy nội lực:
“Phò theo dọi đức Hàm Nghi,
Quan Tướng với quan Đề Soạn, với thì quan Đề Ngô.
Ngũ trụ có quan lớn Hữu Hồ,
Ngài làm Thị vệ thủa mô tới chừ.
Chẳng qua Nam Việt thời hư,
Quân thần phụ tử lên chừ rừng xanh.
Thở than trong chỗ rừng xanh,
Bao giờ khôi phục chốn thành kinh đô.”
                                    (câu 837 - 844, Hồi II)

Các tác giả vô danh chung cùng tiếng nói, tiếng gọi đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, tất cả đều chung tâm tư và chí hướng mới sáng tạo được những vần thơ vừa trữ tình vừa hiện thực đến mức cao điểm như vậy.

Văn chương cung đình - hàn lâm không tách biệt xa rời văn chương dân gian chơn chất, nặng tình nặng nghĩa với non sông cẩm tú.

Ước gì ngày nay những nhà sử học, những đạo diễn sân khấu nghệ thuật, nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử sẽ từ đó xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật để giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự do dân tộc cho thế hệ trẻ được sinh trưởng và thành tài trong cảnh đất nước thanh bình.

3) Phân hóa, chia rẽ là quỷ kế của giặc, thống nhất ý chí và đoàn kết một lòng chóng vượt qua mọi thảm họa.

Sau ngày mất của Tự Đức, trong lịch sử đã diễn ra nhiều tấn tuồng điên đảo tạo lợi thế cho quân xâm lược hả hê lấn sâu thị uy triều đình Huế sớm trao quyền bảo hộ cho ngoại bang.
Đọc và học lịch sử giai đoạn bốn tháng ba vua (tứ nguyệt tam vương), ai mà chẳng đau lòng quặn thắt cho vận nước điêu linh vì thù trong giặc ngoài mà ca dao lưu truyền.

Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường
(Một sông hai nước khôn ăn nói
Bốn tháng ba vua việc chẳng lành)

mà vè thất thủ Thuận An đã mạnh dạn đả kích ở câu 47 - 48 của Hồi I:
“Mặc lòng hai gã quyền hành
Muốn cho ai loại ai thành thì cho”

Ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc lần lượt bị loại trừ với nhiều mưu đồ, tính toan bất chính của ông Quận Tường và ông Tướng Thuyết:
“Thánh hoàng ngài mới băng hà,
Những tham với cách vậy mà tứ tung.”
                                    (câu 65 - 66, Hồi I)

Những quan lại trung chính, hiền lương như Phan Đình Phùng, Trần Tiễn Thành đều lần lượt bị ám hại:
“Đáo để (cho) ông Phan Đình Phùng,
Nói lời trung nghĩa mắc vòng gian lao.”
                                    (câu 43 - 44, Hồi I)

Tướng tài như quan Tiểu phủ sứ Ông Ích Khiêm cũng bị đày bị hại trong lao tù chốn biên viễn thuộc tỉnh Bình Thuận. Quyền thần lộng hành, ai có đề nghị trái ý thì nghi kỵ, tìm cách đốn đi khác nào đốn cây một cách vô cảm, không nương tay. Quả thật, quyền thần tự chặt tay chân của mình:

“Chớ cho lai vãng trong trào,
Cưỡng ngôn nghịch lý, phản phao tới mình.
Quan Tiểu mắc phải vầy binh,
Người trung mắc nạn, lý hình tà gian.”
                        (câu 237 - 240, Hồi II)

Việc hai vua Dục Đức và Hiệp Hòa bị ám hại có bài bản rồi vua Kiến Phúc kế vị cũng bị “trúng thuốc” một cách bất ngờ làm cho tình cảnh trong dân gian thêm hoang mang, rối rắm trăm đường. Mây mù đã che ám cả bầu trời kinh đô phủ đầy oán cừu, tang tóc:

“Giáp Thân lục nguyệt bằng nay,
Vừa đức Kiến Phúc tuần này thăng thiên.
Bá quan văn võ phân phiền,
Giận trong nhà nước không yên bề gì.
Hội triều tôn đức Hàm Nghi,
Ngài lên trị vì ai cũng cần yên.”
                        (câu 287 - 292, Hồi II)

Tình thế đã bi đát lại càng bi lụy thê thảm hơn chỉ vì nội tình triều đình Huế suy vi dễ dàng dẫn đến suy vong, mất nước không chóng thì chầy. Nhân dân khó lòng lay chuyển được tình thế bất an, khốn khổ đến mức trầm trọng. Xưa, danh thần Nguyễn Trãi đã dâng hiến cho đời bài học nhân nghĩa, thu phục tâm công để toàn dân quân đoàn kết một lòng thực thi chủ trương lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thừa lúc diệt mạnh. Cả một tình trạng phân hóa và đầy u ám trong triều chính đương thời như thế thì con đen dân đỏ làm sao hiến kế hy sinh để chống giặc. Thù trong chưa dẹp yên thì làm sao mà diệt được giặc ngoài có tàu đồng, đại bác tân tiến.

Bài học phát huy nội lực, thu phục tâm công và đoàn kết một lòng đã bị xé nát tan tành. Việc bỏ quên thù riêng để chung sức lo hận chung mất nước chỉ lóe sáng trong việc đồng tình giữa Phan Đình Phùng với ông Tướng ngày xưa ở sơn phòng Hà Tĩnh, khó lòng xoay chuyển được tình thế. Ấy là chưa kể việc thực dân Pháp nắm quyền đối ngoại với 2 hiệp ước bất bình đẳng: Hòa ước Harmand và Hòa ước Patenôtre.

Cái giá phải đổi cho cuộc chiến đấu anh dũng và bi thương của dân tộc Việt là nước mất nhà tan khiến cây
cỏ cũng nhuốm màu tang thương:
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
                        (Khuê phụ thán - Thượng Tân Thị)

Hoặc như Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã cảm xúc trong bài thơ “Cảnh mới nhà Thương Bạc”:
Giảng hòa mực ký xong hai chữ/ Bảo hộ cờ treo đã sáu đời.

Cuối cùng với ý chí quật cường của dân tộc đã thôi thúc những nhà cách mạng tiền bối và thời cận đại sớm tìm ra kế sách giữ nước, chống trả quân thù để giành lại quyền tự quyết và độc lập dân tộc - một dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất với dáng đứng oai hùng bên bờ biển cả Thái Bình dương.

L.Q.T
(255/5-10)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.