Bài chòi với Tết miền Trung

14:51 04/11/2008
NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

Hội bài chòi làng Thanh Thủy

Cái tên “chòi” xuất phát từ hình thức chơi: Những người chơi bài ngồi trong 8 hay 10 cái chòi chia thành hai hàng đối nhau, ở một đầu và giữa hai hàng chòi là chòi hiệu. Trước mỗi chòi có treo mõ, một chiếc mành trúc và một đôi câu đối. Người ở chòi hiệu rút các quân bài ở ống bài ra, cứ mỗi quân bài lại hát một câu “thai” để mọi người ở các chòi đoán xem đó là con bài gì, cũng có khi người hiệu giảng luôn kiểu như rao bài ở tổ tôm điếm. Dưới đây là một số câu “thai”:
           
            Một hai họ nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
           
                                                (Con bài Tứ cẳng)
                       
Ta bưng một đĩa mắm lầm
                        Vừa đi vừa hát té ầm xuống sông.
                       
                                    (Con bài Ông Ầm)
           
            Ngồi kề vực thẳm anh câu
                        Xẩy chân tụt xuống vực sâu cái ầm.
                       
                                    (Con bài Ông Ầm)
                       
Lòng thương chị bán thịt heo
                        Hai vai gánh nặng còn đèo móc câu.
                                                            (Con Móc câu)
                       
Đi đâu ôm cháp đi hoài
                        Cử nhân không thấy tú tài cũng không.
                                                            (Con Học trò)
                        Tay
bưng đĩa muối bát rau
                        Anh chấm em chấm cho mau kẻo hết dần.
                                                            (Con Nhà nghèo)
                       
Ai đi ngoài ngõ ào ào
                        Nghe như ông tượng đạp vào, ông vô.
                                                            (Con Tứ tượng)
Câu hô bài có tiếng đệm và lời giải như:
                       
Hượi mà hưới hượi
                        Một hai bận nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
                        Hai người thì có bốn chân
                        Đó là tứ cẳng bớ nàng, bớ anh!
Sau khi người hiệu có con bài hò thơ như vậy, chòi nào có con bài ứng vào với câu hò sẽ gõ ba tiếng mõ và được trao một lá cờ nhỏ, khi trúng ba lần câu hò ở chòi hiệu sẽ được trao lá cờ lớn hơn. Có khi người chòi nào đó hò câu thai và người chòi nào ứng được thì gõ mõ và đưa bài ra. Khi hò câu thai có đàn phách hòa theo.


Người thắng bài gọi là “ù” hay “tới”, mỗi ván bài có người tới là trống kẻng khua vang rồi đốt pháo thổi kèn, người hiệu mang khay phần thưởng đến chòi người tới và cắm một lá cờ đuôi nheo bằng giấy hồng trước chòi.
Bài chòi có 36 con bài gọi là bài trường vẽ theo lối tượng hình như con Tứ cẳng vẽ bốn chân, Tứ móc vẽ 4 móc, Tứ tượng vẽ 4 voi...vv.
Hát bài chòi xưa thường tổ chức vào đình đám hội làng và dịp Tết. Bài chòi sau sẽ không bó hẹp mình trong địa phương, những người hát bài chòi đi đến những nơi đông người như phố phường, chợ, bến xe... đến các hội làng, khao vọng. Người hát có thể hát các câu lẻ gọi là “bài chòi rời” hoặc hát các tích truyện như Lục Vân Tiên, Thoại Khanh - Châu Tuấn, gọi là “bài chòi pho” hay “bài chòi vở”.
                        N.K.X

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.