Bác Hồ với nghệ thuật múa

10:13 23/10/2008
LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

Theo “Việt sử thông giám cương mục”, thái thú Cửu Chân – Đam Manh làm chủ tiệc rượu của bố vợ là Chu Kinh, mời các quan to đến dự. Lúc rượu đã say, nổi khúc nhạc vui, công tào Phiên Hâm đứng lên múa, mời Chu Kinh múa. Chu Kinh không chịu đứng dậy. Phiên Hâm cứ ép Chu Kinh mãi. Hiện tượng ấy nói lên rằng ở Trung Quốc thời Đông Hán, theo thể chế, quan lại không múa. Vua chúa quan lại có vũ công múa hát phục vụ ở tiệc tùng. Trong khi đó ở quận Cửu Chân, tuy công tào là một viên chức của bộ máy thái thú, Phiên Hâm vẫn múa theo thói quen sinh hoạt của người Việt. “Việt sử thông giám cương mục” lại nói đến một hiện tượng múa sinh hoạt thời Trần: Năm Nguyên Phong thứ hai (1252) Trần Thái Tông đãi yến quần thần... Mọi người trong tiệc ruợu đứng dậy dắt tay nhau mà hát. Điều ấy cho phép ta nghĩ rằng đó là một hình thức hát múa tập thể thời Trần. Nhưng đến thời hậu Lê, vấn đề múa tập thể bị xem xét theo cách khác. Theo “Đại Việt sử ký” có lần vua nhà Lê về đất Lam Kinh. Dân Thanh Hoá ra nghênh tiếp. Con trai con gái múa hát Lý liên để chào mừng. nữ dắt tay nhau hoặc chéo chân, chéo cổ nhau gọi là “cắm hoa”, “kết hoa”. Đài quan bẩm với Thái úy rằng lối hát ấy là thói dâm tục, không nên cho hát trước xa giá. Thái úy ra lệnh cấm hẳn. Nếu Lý liên bị cấm thì các hình thức hát múa tập thể tương tự của người Việt tránh sao khỏi số phận này. Lễ giáo phong kiến, với những quan niệm đạo đức như “nam nữ thụ thụ bất thân” “xuất tắc yểm diện” đã hạn chế các quan hệ nam nữ trong giao tiếp với xã hội và lẽ tất nhiên hạn chế rất nhiều những điệu múa tập thể nam nữ.

Cách mạng tháng Tám rồi cuộc kháng chiến chống Pháp đã phát huy vai trò phụ nữ trong công tác xã hội ở vùng tự do và chiến khu. Hình thành phong trào múa tập thể - một biểu hiện của đời sống mới.
Hồi kháng chiến, mặc dù bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ cũng có lúc múa vui với cán bộ, chiến sĩ. Điều đó đã khích lệ cán bộ, bộ đội, dân công miền xuôi tham gia phong trào múa hát tập thể. Sự chan hoà vào sinh hoạt múa hát của cán bộ và nhân dân, những động tác múa hồn nhiên của Bác Hồ làm cho cán bộ lãnh đạo các cấp nhận thức rằng tác phong quần chúng của một cán bộ lãnh đạo có tác dụng lôi cuốn quần chúng vào những sinh hoạt văn hoá tập thể. Đến với dân, cùng múa hát với họ, tất nhiên cán bộ sẽ dễ gần gũi và nghe được tiếng nói của dân. Không phải ngẫu nhiên người phụ nữ Kinh miền xuôi (từ dân công, bộ đội đến cán bộ đoàn thể cứu quốc) tham gia múa hát tập thể. Họ cũng hiểu được rằng cách mạng và Bác Hồ đã giải phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến; họ được bình đẳng tham gia các hoạt động xã hội, các sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Một sự kiện văn hoá tư tưởng đánh dấu sự đổi mới cách nhìn về nghệ thuật múa là trong Đại hội Mặt trận Liên Việt toàn quốc năm 1951, Bác Hồ dẫn đầu điệu múa “Kết đoàn”. Đại biểu các Đảng, các tôn giáo, các đoàn thể cứu quốc, các khách quý... vịn vai nhau bước theo chân Bác Hồ. Như vậy, múa tập thể đã trở thành biểu tượng của tinh thần toàn dân đoàn kết kháng chiến.

Tháng Hữu Nghị Việt Trung Xô (1953) là cao trào của múa tập thể. Ở một cuộc liên hoan trong tháng ấy, Bác Hồ đã nhảy múa với cán bộ và chiến sĩ. Sự tham gia sinh hoạt nghệ thuật này của vị lãnh tụ kính yêu là một hình thức đả phá những quan niệm phong kiến như “xướng ca vô loài”, “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” (mọi tầng lớp đều thấp hèn, chỉ có người đọc sách là cao quý). Điệu múa “Đoàn kết” trong đại hội Mặt trận Liên Việt cho thấy những người tham gia đều là người đáng quý, những trí thức cách mạng cũng coi trọng sinh hoạt múa ấy.

Múa tập thể - một nét sinh hoạt văn hoá của Hồ Chủ tịch – đã cho các cán bộ quản lý văn hoá bài học bổ ích về tác dụng của lãnh đạo đối với phong trào văn hoá quần chúng. Loại múa này giáo dục tinh thần tập thể trong sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, tinh thần dân chủ bình đẳng cho những ai tham gia cuộc vui (bất luận họ giữ địa vị gì trong xã hội) và tinh thần tự do sáng tạo cái đẹp (phù hợp với yêu cầu của điệu múa) để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của mình. Chính những phẩm chất tư tưởng và đạo đức ấy làm cho điệu múa tập thể trở thành món ăn tinh thần của quân dân ta trong kháng chiến chống Pháp. Bác Hồ đã sử dụng nó như một vũ khí trong cuộc đấu tranh phản phong. Đối với người Việt, trong việc phục hồi và phát triển múa tập thể, không thể không nói đến ảnh hưởng to lớn của tư tưởng và tác phong lãnh đạo của Bác Hồ.
                                    L.T.L

(nguồn: TCSH số 219 - 05 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.