Ba nhà sư và cuộc vượt ngục

09:54 09/04/2009
NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

Thầy Thích Trí Diệm thu xếp khăn gói xong, lên đường ngay, Trí Diệm vốn là con một gia đình gia thế, thân sinh của thầy đã đậu phó bảng môn võ của triều đình Huế, nên thầy được học hành khá hoàn chỉnh, giỏãi tiếng Hán và giỏi cả tiếng Pháp, Thích Trí Diệm là đệ tử ruột của Hoà thượng Thích Đôn Hậu, Hoà Thượng rất mến người học trò ruột của mình ở học vấn, ở nét thông minh, ở sức truyền cảm khi thuyết pháp trò mình, thỉnh thoảng hoà thượng bảo học trò: “Nay ta bị viêm họng, con hãy lên giảng bài giúp ta”. Học trò hoà thượng đã hoàn thành công việc được giao một cách xuất sắc.

Cứ từng bước dạy dỗ chu tất như vậy, đại đức Thích Trí Diệm trở thành một người thuyết pháp giỏi trong hàng ngũ giáo giới ở Huế. Nha Trang có việc cần một người thông minh, tháo vát, theo yêu cầu ấy Hoà Thượng đã cử đại đức Thích Trí Diệm đi ngay.

Đại đức Thích Trí Diệm đã đến chùa Hải Đức Nha Trang đúng hẹn. Chùa Hải Đức có nhiều tăng ni, nhưng có hai người thiết thân với thầy Trí Diệm là nhà sư Giác Phong, trụ trì chùa và học trò ruột của nhà sư, giống như Trí Diệm với Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, là đại đức trẻ Viên Minh, cùng lứa tuổi 22, 23 như Thích Trí Diệm. Vốn đã có quan hệ cũ, nên hai người quấn quýt với nhau suốt ngày.

Và buổi thuyết pháp chung đầu tiên của hai người tại chùa Hải Đức đã quy tụ được rất đông đảo phật tử Nha Trang. Sư Giác Phong đã đến dự cuộc thuyết pháp này từ đầu đến cuối, nhà sư tỏ ta rất hài lòng với học vấn của hai môn đệ mình. Hôm sau sư cho gọi hai môn đệ đến phòng riêng, giọng chậm rãi:

- Ta là người cách mạng. Hai thầy là những nhà tu chính trực, yêu nước. Có việc rất gấp, ta muốn nhờ 2 thầy, không biết hai thầy có nhận lời giúp không. Nếu các thầy giúp, việc thành, nhân dân Khánh Hoà sẽ không quên ơn thầy.

Viên Minh và Trí Diệm nhìn nhau, gật đầu.

Đại đức Viên Minh thưa:

- Dạ, thưa thầy việc gì ạ?

Vẫn giọng chậm rãi, nhưng trang nghiêm, sư Giác Phong nói:

- Anh em tù chính trị trong nhà lao Buôn Mê Thuột đang làm reo, đấu tranh, tuyệt thực. Anh em đang nóng lòng muốn phá nhà lao, vượt ngục trở về với cách mạng đang ở vào giai đoạn nóng bỏng này. Bây giờ phải làm sao đưa được một lá thư mật vào trong nhà lao để hướng dẫn anh em đấu tranh và tiến tới vượt ngục. Và khi ra ngoài sẽ đi đường nào để có người dẫn đường đưa về chiến khu cách mạng. Hai thầy thấy việc này khó chứ?

- Dạ khó ạ.

- Khó. Nhưng là việc của cách mạng, của đất nước, nên ta phải nhờ lòng yêu nước ở hai thầy. Việc này ta sẽ bàn bạc kỹ với 2 thầy.

- Dạ, xin thầy cứ chỉ bảo.

Sư Giác Phong lấy dưới gầm giường một đôi guốc mộc cho 2 môn đệ ướm thử. Cả hai đi đều vừa. Nhưng chân Thích Trí Diệm vừa hơn. Sư nói:

- Các thầy coi đây - Sư lật ngửa một chiếc guốc, rất thận trọng, mở chiếc nắp rất kín dưới đế guốc.Chiếc guốc thật sự đã trở thành một chiếc hộp bí mật, sư lấy trong “hộp kín” ra một phong thư nhỏ, chữ viết li ti, kín mấy trang giấy mỏng - Đây là mệnh lệnh bí mật của cách mạng gửi vào hướng dẫn anh em trong nhà tù phương thức đấu tranh, sau đó vượt ngục. Dừng lại giây lát nhìn hai học trò, như để thăm dò thái độ của họ. Sư nói tiếp - Việc của chúng ta là làm sao đưa bí mật chiếc guốc này vào trong nhà tù.

Thích Trí Diệm chớp mắt, nhìn sư Giác Phong rất nhanh. Những dòng ký ức loang loáng xuất hiện trong đầu, chúng nối kết lại với nhau và đại đức đã nhận ra người đang ngồi trước mặt mình đây là ai. Rất tiếc trong phút giây này Trí Diệm không nhớ ra tên thât của sư Giác Phong.

Sư Giác Phong vốn là một nhà cách mạng. Ông cùng với một đồng chí nữa được cử sang Nga học. Xong khoá học, hai người về nước. Đồng chí của ông đi thẳng vào Nam nhận nhiệm vụ mới của xứ uỷ Nam Kỳ. Còn ông, để dễ hoạt động hợp pháp, dễ tập hợp quần chúng, ông đã trở thành nhà sư mặc áo vàng trụ trì chùa Hải Đức tại Nha Trang này.

- Chúng ta phải vào được tận trong nhà tù Buôn Mê Thuột.

- Xin thầy cứ chỉ vẽ cho chúng con.

Suy ngẫm giây lát, nhà sư nói:

- Ngày mốt chùa chúng ta có một cuộc thuyết pháp cho những người Pháp nghe. Đi cùng họ có cả vợ con và những người thân thích của họ. Cuộc thuyết pháp này tất nhiên là bằng tiếng Pháp. Theo ta, yêu cầu của lần thuyết pháp này phải gây được lòng tin của người Pháp. Vẫn là thuyết pháp Phật giáo, nhưng trong đó ta khéo khen họ đã đưa văn minh tới cho đất nước này.

- Thưa thầy, mình đang đánh Pháp, sao lại ca ngợi họ ạ?

- Đây chỉ là một “đòn chiến thuật” để người Pháp tưởng rằng với một nội dung thuyết pháp như thế có thể cải hoá được những cái đầu đang “nóng” của tù nhân Buôn Mê Thuột. Đến mức họ sẽ mời chúng ta vào thuyết pháp ngay trong nhà tù Buôn Mê Thuật, nơi chúng ta đang cần đến.

- Để chuyển chiếc guốc bí mật này vào trong đó.

- Đúng như vậy. Cho nên bài thuyết pháp của các thầy lần này không chỉ đặc biệt bằng tiếng Pháp, mà sao đó mê hoặc được những cái đầu thực dân, để chúng ta muốn gì, chúng phải nghe vậy. Bây giờ hai thầy về chuẩn bị bài thuyết pháp trên giấy bằng tiếng Pháp, ta sẽ duyệt. Rồi các thầy tập diễn thuyết cho thật hùng hồn, câu cuối cùng ta muốn nói rằng: Ta tin ở hai thầy.

Đại đức Viên Minh và đại đức Thích Trí Diệm bàn bạc, phân công nhau viết từng đoạn, đọc cho nhau nghe, rồi kết nối lại thành bài. Trao bài cho sư, hai người đứng hai bên vừa chờ đợi, vừa nhìn thái độ thầy của mình. Thấy sư Giác Phong vừa đọc, vừa tủm tỉm cười, họ mới yên lòng.

Đọc xong, sư nói:

- Bài thuyết pháp tốt, các thầy về đọc lại và tập thuyết pháp sao cho tốt nhất.

Đêm thuyết pháp đã tới. Chùa Hải Đức kết hoa, treo đèn hết sức rực rỡ. Xe chở các quan Tây tới. Xe chở vợ con họ tới. Chính thực, họ là con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo. Song tâm địa của người cai trị là phải nắm được lòng dân, hiểu sâu tín ngưỡng và tâm linh của dân Việt để tìm cách cai trị. Vì vậy họ đưa vợ con đi nghe thuyết pháp một cách chăm chỉ.

Các dự đoán của sư Giác Phong đã thành sự thật. Những tràng pháo tay kéo dài trước đèn tam bảo đã khẳng định điều đó. Những nét cười rạng rỡ từng nét trên mặt mỗi người Pháp và vợ con họ đã làm nhà sư Giác Phong yên tâm.

Các sĩ quan Pháp đã xin gặp riêng nhà sư trụ trì. Khi họ về rồi, sư Giác Phong gọi Viên Minh và Trí Diệm tới:

- Thay mặt cách mạng Khánh Hoà ta cám ơn hai thầy, cám ơn thật lòng...

- Họ có yêu cầu đi thuyết pháp không ạ?

- Thành công của chúng ta là ở chỗ đó. Họ mời chúng ta đi Buôn Mê Thuột. Họ sẽ đưa xe hơi tới tận đây để đón hai thầy.

Trí Diệm thưa:

- Thầy chưa nói cho chúng con biết khi tới nhà tù, chúng con phải làm những gì. Và đặc biệt là đôi guốc, chúng con sẽ phải xử trí như thế nào để đưa mệnh lệnh tới được những người tù.

- Để từ từ ta sẽ nói rõ.

Viên Minh và Trí Diệm mừng lắm vì đã giúp được chút lòng yêu nước của tăng ni cho đất nước.

Trước khi xe hơi Pháp tới đón, sư Giác Phong đã ngồi sẵn với hai đệ tử. Sư nói:

- Khi các con tới thuyết pháp cho các tù nhân, tất nhiên họ sẽ la ó, phản đối, các con có biết vì sao không?

- Dạ thưa vì mình đã nói ngược với lòng họ.

- Đúng. Họ làm cách mạng vì họ căm thù giặc Pháp. Giờ ta ca ngợi Pháp, họ la ó phản đối là điều không thể tránh khỏi. Phải cẩn thận, có khi họ ném đá vào mình, hoặc xông lên đánh mình nữa. Vì họ đâu hiểu nhiệm vụ của mình. Điều này các thầy khỏi  lo, ta sẽ nói với người Pháp để họ bảo vệ các thầy.

Trí Diệm thưa:

- Đã đành chúng con sẽ đi đôi guốc ấy. Nhằm đôi guốc ấy trên nền nhà tù. Nhưng để chiếc guốc sao đó tới tay tù nhân thì con chưa hiểu.

Như để suy nghĩ thêm, sư Giác Phong mỉm cười.

- Ta giao đôi guốc này cho Trí Diệm,

- Dạ cho con.

- Chứ sao nữa. Thầy sẽ đi đôi guốc này tới nơi thuyết pháp. Giữa chừng thuyết pháp sẽ có la ó. Cuộc thuyết pháp sẽ không mãn nguyện. Sẽ bị đứt giữa chừng. Tù nhân bị lùa về nhà lao, còn các thầy sẽ được lính Pháp đưa lên xe trở lại chùa Hải Đức.

Trí Diệm vẻ hớt hải:

- Còn chiếc guốc ạ.

- Đúng lúc hai bên quay lưng lại với nhau, thầy đi chiếc guốc sẽ đứt quai. Thầy tỏ ra rất phẫn nộ với chiếc guốc phản chủ. Giận dữ cúi xuống, cầm chiếc guốc, quăng nó ra xa, nơi có bụi cây hoặc có chuồng gà, có nhà bếp, có bãi cỏ nào cũng được. Việc của thầy là vất nó đi.

Trí Diệm như đã nhận ra, cười:

- Con hiểu rồi ạ. Và sau đó sẽ có người nhặt chiếc guốc ấy đưa tới cho anh em mình.

- Đúng vậy, sẽ có người quan sát thầy rất tỷ mỷ để xem thầy vất chiếc guốc ấy ở đâu. Mọi việc ấy thầy khỏi lo, đã có ta lo liệu hết.

- Thầy thật chu đáo.

Đúng lúc đó xe Pháp xịch đến. Trí Diệm và Viên Minh lên xe. Xe băng qua đèo Phượng Hoàng lên thẳng Buôn Mê Thuột. Trong nhà tù cũng đã treo đèn kết hoa. Những người tù đã ngồi đợi sẵn hai nhà sư đến thuyết pháp. Không vào phòng uống nước. Hai nhà sư đến thẳng nơi tù nhân ngồi và thực hiện cuộc thuyết pháp của mình.

Đã đành nội dung “cam kết” không được thực hiện đúng như đêm thuyết pháp cho người Pháp ở Nha Trang. Tuy vậy trong bài thuyết pháp cũng có những câu ca ngợi Pháp, liền bị tù nhân la ó phản đối.

Những gì xảy ra hoàn toàn đúng như dự liệu mà sư Giác Phong đã tính toán. Trước khi bước lên xe ôtô, chiếc guốc đứt, Trí Diệm đã nhìn chiếc guốc, vùng vằng, cầm quăng nó ra ngoài bãi cỏ.

Anh em từ Buôn Mê Thuột, theo mệnh lệnh đã vạch, bí mật trốn khỏi nhà tù, ra đến chỗ hẹn đã có người đón, dẫn tắt đường rừng, về nhà ga Nha Trang ban đêm, tàu hoả tới, họ đã có sẵn vé trong tay, nhảy tàu. Đến ga Vạn Giã, họ xuống tàu vào chiến khu Đèo Cả trong niềm hân hoan, chờ đón.

Các tù nhân Buôn Mê Thuột được giải phóng bữa đó đã trở thành những chiến sĩ nòng cốt lãnh đạo nhân dân Khánh Hoà vùng dậy cướp chính quyền góp phần làm nên cuộc cách mạng tháng 8 lẫy lừng góp phần dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Sư Giác Phong trở thành Chủ tịch mặt trận Việt Minh tỉnh Khánh Hoà.

Cách mạng tháng 8 thành công. Pháp chiếm lại Huế. Phong trào yêu nước tại Huế vùng dậy. Phong trào ấy lan đến cả giáo hội Phật giáo Huế. Theo tiếng gọi của đất nước, lứa tuổi thanh niên Phật giáo Huế đã “nhập thế” với khẩu hiệu bừng bừng như lửa cháy: “Cởi áo cà sa mặc chiến bào”. Trong đó có Thích Trí Diệm.

Từ đó đến nay đã hơn 60 năm. Sư Giác Phong và Đại đức Viên Minh đã viên tịch. Thích Trí Diệm đang còn sống. Năm nay ông đã 83 tuổi. Để kỷ niệm một thời vẻ vang, ông vẫn giữ tên cũ, chỉ lấy lại họ mình: Trần Chí Diệm.

Ngồi tâm sự, ông nói:

Tôi vào chùa đi tu, là nghiệp. Rồi sau đó tham gia cách mạng, làm một chiến sỹ an ninh cũng là nghiệp. Rồi bỏ lực lượng vũ trang theo học nghề thầy thuốc, mấy khoá làm chủ tịch Hội đông y Thừa Thiên Huế, giờ ngồi chữa bệnh cho bà con mình cũng là nghiệp. Mọi thứ ấy đối với tôi đều đã mãn nguyện lắm rồi.

Ông Trần Chí Diệm, hiện ở xã Hương Sơ, ngoại thành phía Bắc Huế, là một thầy thuốc rất giỏi. Bệnh nhân tới chỉ cần đưa tay cho ông bắt mạch là ông sẽ kể cho hết bệnh của họ, và bắt đầu cắt thuốc.

Với một quầy thuốc nhỏ tại nhà trong xóm, có tuần ông bán tới một tạ rưỡi thuốc bắc.

Nhưng mỗi lần nhắc tới chuyện cũ, bao giờ ông cũng mỉm cười:

- Đó thật là một giai đoạn anh hùng, một thời kỳ đáng sống. Thời đó, trong chúng tôi lúc nào cũng lấy lời Hồ Chủ tịch dạy: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước độc lập, dân được tự do. Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” làm lý tưởng sống của mình. Nay Đảng nói: “Tất cả do dân, vì dân”, tôi chỉ mong không ai phản bội lại lý tưởng ấy.

   
N.Q.H
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.