Ba nhà sư và cuộc vượt ngục

09:54 09/04/2009
NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

Thầy Thích Trí Diệm thu xếp khăn gói xong, lên đường ngay, Trí Diệm vốn là con một gia đình gia thế, thân sinh của thầy đã đậu phó bảng môn võ của triều đình Huế, nên thầy được học hành khá hoàn chỉnh, giỏãi tiếng Hán và giỏi cả tiếng Pháp, Thích Trí Diệm là đệ tử ruột của Hoà thượng Thích Đôn Hậu, Hoà Thượng rất mến người học trò ruột của mình ở học vấn, ở nét thông minh, ở sức truyền cảm khi thuyết pháp trò mình, thỉnh thoảng hoà thượng bảo học trò: “Nay ta bị viêm họng, con hãy lên giảng bài giúp ta”. Học trò hoà thượng đã hoàn thành công việc được giao một cách xuất sắc.

Cứ từng bước dạy dỗ chu tất như vậy, đại đức Thích Trí Diệm trở thành một người thuyết pháp giỏi trong hàng ngũ giáo giới ở Huế. Nha Trang có việc cần một người thông minh, tháo vát, theo yêu cầu ấy Hoà Thượng đã cử đại đức Thích Trí Diệm đi ngay.

Đại đức Thích Trí Diệm đã đến chùa Hải Đức Nha Trang đúng hẹn. Chùa Hải Đức có nhiều tăng ni, nhưng có hai người thiết thân với thầy Trí Diệm là nhà sư Giác Phong, trụ trì chùa và học trò ruột của nhà sư, giống như Trí Diệm với Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, là đại đức trẻ Viên Minh, cùng lứa tuổi 22, 23 như Thích Trí Diệm. Vốn đã có quan hệ cũ, nên hai người quấn quýt với nhau suốt ngày.

Và buổi thuyết pháp chung đầu tiên của hai người tại chùa Hải Đức đã quy tụ được rất đông đảo phật tử Nha Trang. Sư Giác Phong đã đến dự cuộc thuyết pháp này từ đầu đến cuối, nhà sư tỏ ta rất hài lòng với học vấn của hai môn đệ mình. Hôm sau sư cho gọi hai môn đệ đến phòng riêng, giọng chậm rãi:

- Ta là người cách mạng. Hai thầy là những nhà tu chính trực, yêu nước. Có việc rất gấp, ta muốn nhờ 2 thầy, không biết hai thầy có nhận lời giúp không. Nếu các thầy giúp, việc thành, nhân dân Khánh Hoà sẽ không quên ơn thầy.

Viên Minh và Trí Diệm nhìn nhau, gật đầu.

Đại đức Viên Minh thưa:

- Dạ, thưa thầy việc gì ạ?

Vẫn giọng chậm rãi, nhưng trang nghiêm, sư Giác Phong nói:

- Anh em tù chính trị trong nhà lao Buôn Mê Thuột đang làm reo, đấu tranh, tuyệt thực. Anh em đang nóng lòng muốn phá nhà lao, vượt ngục trở về với cách mạng đang ở vào giai đoạn nóng bỏng này. Bây giờ phải làm sao đưa được một lá thư mật vào trong nhà lao để hướng dẫn anh em đấu tranh và tiến tới vượt ngục. Và khi ra ngoài sẽ đi đường nào để có người dẫn đường đưa về chiến khu cách mạng. Hai thầy thấy việc này khó chứ?

- Dạ khó ạ.

- Khó. Nhưng là việc của cách mạng, của đất nước, nên ta phải nhờ lòng yêu nước ở hai thầy. Việc này ta sẽ bàn bạc kỹ với 2 thầy.

- Dạ, xin thầy cứ chỉ bảo.

Sư Giác Phong lấy dưới gầm giường một đôi guốc mộc cho 2 môn đệ ướm thử. Cả hai đi đều vừa. Nhưng chân Thích Trí Diệm vừa hơn. Sư nói:

- Các thầy coi đây - Sư lật ngửa một chiếc guốc, rất thận trọng, mở chiếc nắp rất kín dưới đế guốc.Chiếc guốc thật sự đã trở thành một chiếc hộp bí mật, sư lấy trong “hộp kín” ra một phong thư nhỏ, chữ viết li ti, kín mấy trang giấy mỏng - Đây là mệnh lệnh bí mật của cách mạng gửi vào hướng dẫn anh em trong nhà tù phương thức đấu tranh, sau đó vượt ngục. Dừng lại giây lát nhìn hai học trò, như để thăm dò thái độ của họ. Sư nói tiếp - Việc của chúng ta là làm sao đưa bí mật chiếc guốc này vào trong nhà tù.

Thích Trí Diệm chớp mắt, nhìn sư Giác Phong rất nhanh. Những dòng ký ức loang loáng xuất hiện trong đầu, chúng nối kết lại với nhau và đại đức đã nhận ra người đang ngồi trước mặt mình đây là ai. Rất tiếc trong phút giây này Trí Diệm không nhớ ra tên thât của sư Giác Phong.

Sư Giác Phong vốn là một nhà cách mạng. Ông cùng với một đồng chí nữa được cử sang Nga học. Xong khoá học, hai người về nước. Đồng chí của ông đi thẳng vào Nam nhận nhiệm vụ mới của xứ uỷ Nam Kỳ. Còn ông, để dễ hoạt động hợp pháp, dễ tập hợp quần chúng, ông đã trở thành nhà sư mặc áo vàng trụ trì chùa Hải Đức tại Nha Trang này.

- Chúng ta phải vào được tận trong nhà tù Buôn Mê Thuột.

- Xin thầy cứ chỉ vẽ cho chúng con.

Suy ngẫm giây lát, nhà sư nói:

- Ngày mốt chùa chúng ta có một cuộc thuyết pháp cho những người Pháp nghe. Đi cùng họ có cả vợ con và những người thân thích của họ. Cuộc thuyết pháp này tất nhiên là bằng tiếng Pháp. Theo ta, yêu cầu của lần thuyết pháp này phải gây được lòng tin của người Pháp. Vẫn là thuyết pháp Phật giáo, nhưng trong đó ta khéo khen họ đã đưa văn minh tới cho đất nước này.

- Thưa thầy, mình đang đánh Pháp, sao lại ca ngợi họ ạ?

- Đây chỉ là một “đòn chiến thuật” để người Pháp tưởng rằng với một nội dung thuyết pháp như thế có thể cải hoá được những cái đầu đang “nóng” của tù nhân Buôn Mê Thuột. Đến mức họ sẽ mời chúng ta vào thuyết pháp ngay trong nhà tù Buôn Mê Thuật, nơi chúng ta đang cần đến.

- Để chuyển chiếc guốc bí mật này vào trong đó.

- Đúng như vậy. Cho nên bài thuyết pháp của các thầy lần này không chỉ đặc biệt bằng tiếng Pháp, mà sao đó mê hoặc được những cái đầu thực dân, để chúng ta muốn gì, chúng phải nghe vậy. Bây giờ hai thầy về chuẩn bị bài thuyết pháp trên giấy bằng tiếng Pháp, ta sẽ duyệt. Rồi các thầy tập diễn thuyết cho thật hùng hồn, câu cuối cùng ta muốn nói rằng: Ta tin ở hai thầy.

Đại đức Viên Minh và đại đức Thích Trí Diệm bàn bạc, phân công nhau viết từng đoạn, đọc cho nhau nghe, rồi kết nối lại thành bài. Trao bài cho sư, hai người đứng hai bên vừa chờ đợi, vừa nhìn thái độ thầy của mình. Thấy sư Giác Phong vừa đọc, vừa tủm tỉm cười, họ mới yên lòng.

Đọc xong, sư nói:

- Bài thuyết pháp tốt, các thầy về đọc lại và tập thuyết pháp sao cho tốt nhất.

Đêm thuyết pháp đã tới. Chùa Hải Đức kết hoa, treo đèn hết sức rực rỡ. Xe chở các quan Tây tới. Xe chở vợ con họ tới. Chính thực, họ là con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo. Song tâm địa của người cai trị là phải nắm được lòng dân, hiểu sâu tín ngưỡng và tâm linh của dân Việt để tìm cách cai trị. Vì vậy họ đưa vợ con đi nghe thuyết pháp một cách chăm chỉ.

Các dự đoán của sư Giác Phong đã thành sự thật. Những tràng pháo tay kéo dài trước đèn tam bảo đã khẳng định điều đó. Những nét cười rạng rỡ từng nét trên mặt mỗi người Pháp và vợ con họ đã làm nhà sư Giác Phong yên tâm.

Các sĩ quan Pháp đã xin gặp riêng nhà sư trụ trì. Khi họ về rồi, sư Giác Phong gọi Viên Minh và Trí Diệm tới:

- Thay mặt cách mạng Khánh Hoà ta cám ơn hai thầy, cám ơn thật lòng...

- Họ có yêu cầu đi thuyết pháp không ạ?

- Thành công của chúng ta là ở chỗ đó. Họ mời chúng ta đi Buôn Mê Thuột. Họ sẽ đưa xe hơi tới tận đây để đón hai thầy.

Trí Diệm thưa:

- Thầy chưa nói cho chúng con biết khi tới nhà tù, chúng con phải làm những gì. Và đặc biệt là đôi guốc, chúng con sẽ phải xử trí như thế nào để đưa mệnh lệnh tới được những người tù.

- Để từ từ ta sẽ nói rõ.

Viên Minh và Trí Diệm mừng lắm vì đã giúp được chút lòng yêu nước của tăng ni cho đất nước.

Trước khi xe hơi Pháp tới đón, sư Giác Phong đã ngồi sẵn với hai đệ tử. Sư nói:

- Khi các con tới thuyết pháp cho các tù nhân, tất nhiên họ sẽ la ó, phản đối, các con có biết vì sao không?

- Dạ thưa vì mình đã nói ngược với lòng họ.

- Đúng. Họ làm cách mạng vì họ căm thù giặc Pháp. Giờ ta ca ngợi Pháp, họ la ó phản đối là điều không thể tránh khỏi. Phải cẩn thận, có khi họ ném đá vào mình, hoặc xông lên đánh mình nữa. Vì họ đâu hiểu nhiệm vụ của mình. Điều này các thầy khỏi  lo, ta sẽ nói với người Pháp để họ bảo vệ các thầy.

Trí Diệm thưa:

- Đã đành chúng con sẽ đi đôi guốc ấy. Nhằm đôi guốc ấy trên nền nhà tù. Nhưng để chiếc guốc sao đó tới tay tù nhân thì con chưa hiểu.

Như để suy nghĩ thêm, sư Giác Phong mỉm cười.

- Ta giao đôi guốc này cho Trí Diệm,

- Dạ cho con.

- Chứ sao nữa. Thầy sẽ đi đôi guốc này tới nơi thuyết pháp. Giữa chừng thuyết pháp sẽ có la ó. Cuộc thuyết pháp sẽ không mãn nguyện. Sẽ bị đứt giữa chừng. Tù nhân bị lùa về nhà lao, còn các thầy sẽ được lính Pháp đưa lên xe trở lại chùa Hải Đức.

Trí Diệm vẻ hớt hải:

- Còn chiếc guốc ạ.

- Đúng lúc hai bên quay lưng lại với nhau, thầy đi chiếc guốc sẽ đứt quai. Thầy tỏ ra rất phẫn nộ với chiếc guốc phản chủ. Giận dữ cúi xuống, cầm chiếc guốc, quăng nó ra xa, nơi có bụi cây hoặc có chuồng gà, có nhà bếp, có bãi cỏ nào cũng được. Việc của thầy là vất nó đi.

Trí Diệm như đã nhận ra, cười:

- Con hiểu rồi ạ. Và sau đó sẽ có người nhặt chiếc guốc ấy đưa tới cho anh em mình.

- Đúng vậy, sẽ có người quan sát thầy rất tỷ mỷ để xem thầy vất chiếc guốc ấy ở đâu. Mọi việc ấy thầy khỏi lo, đã có ta lo liệu hết.

- Thầy thật chu đáo.

Đúng lúc đó xe Pháp xịch đến. Trí Diệm và Viên Minh lên xe. Xe băng qua đèo Phượng Hoàng lên thẳng Buôn Mê Thuột. Trong nhà tù cũng đã treo đèn kết hoa. Những người tù đã ngồi đợi sẵn hai nhà sư đến thuyết pháp. Không vào phòng uống nước. Hai nhà sư đến thẳng nơi tù nhân ngồi và thực hiện cuộc thuyết pháp của mình.

Đã đành nội dung “cam kết” không được thực hiện đúng như đêm thuyết pháp cho người Pháp ở Nha Trang. Tuy vậy trong bài thuyết pháp cũng có những câu ca ngợi Pháp, liền bị tù nhân la ó phản đối.

Những gì xảy ra hoàn toàn đúng như dự liệu mà sư Giác Phong đã tính toán. Trước khi bước lên xe ôtô, chiếc guốc đứt, Trí Diệm đã nhìn chiếc guốc, vùng vằng, cầm quăng nó ra ngoài bãi cỏ.

Anh em từ Buôn Mê Thuột, theo mệnh lệnh đã vạch, bí mật trốn khỏi nhà tù, ra đến chỗ hẹn đã có người đón, dẫn tắt đường rừng, về nhà ga Nha Trang ban đêm, tàu hoả tới, họ đã có sẵn vé trong tay, nhảy tàu. Đến ga Vạn Giã, họ xuống tàu vào chiến khu Đèo Cả trong niềm hân hoan, chờ đón.

Các tù nhân Buôn Mê Thuột được giải phóng bữa đó đã trở thành những chiến sĩ nòng cốt lãnh đạo nhân dân Khánh Hoà vùng dậy cướp chính quyền góp phần làm nên cuộc cách mạng tháng 8 lẫy lừng góp phần dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Sư Giác Phong trở thành Chủ tịch mặt trận Việt Minh tỉnh Khánh Hoà.

Cách mạng tháng 8 thành công. Pháp chiếm lại Huế. Phong trào yêu nước tại Huế vùng dậy. Phong trào ấy lan đến cả giáo hội Phật giáo Huế. Theo tiếng gọi của đất nước, lứa tuổi thanh niên Phật giáo Huế đã “nhập thế” với khẩu hiệu bừng bừng như lửa cháy: “Cởi áo cà sa mặc chiến bào”. Trong đó có Thích Trí Diệm.

Từ đó đến nay đã hơn 60 năm. Sư Giác Phong và Đại đức Viên Minh đã viên tịch. Thích Trí Diệm đang còn sống. Năm nay ông đã 83 tuổi. Để kỷ niệm một thời vẻ vang, ông vẫn giữ tên cũ, chỉ lấy lại họ mình: Trần Chí Diệm.

Ngồi tâm sự, ông nói:

Tôi vào chùa đi tu, là nghiệp. Rồi sau đó tham gia cách mạng, làm một chiến sỹ an ninh cũng là nghiệp. Rồi bỏ lực lượng vũ trang theo học nghề thầy thuốc, mấy khoá làm chủ tịch Hội đông y Thừa Thiên Huế, giờ ngồi chữa bệnh cho bà con mình cũng là nghiệp. Mọi thứ ấy đối với tôi đều đã mãn nguyện lắm rồi.

Ông Trần Chí Diệm, hiện ở xã Hương Sơ, ngoại thành phía Bắc Huế, là một thầy thuốc rất giỏi. Bệnh nhân tới chỉ cần đưa tay cho ông bắt mạch là ông sẽ kể cho hết bệnh của họ, và bắt đầu cắt thuốc.

Với một quầy thuốc nhỏ tại nhà trong xóm, có tuần ông bán tới một tạ rưỡi thuốc bắc.

Nhưng mỗi lần nhắc tới chuyện cũ, bao giờ ông cũng mỉm cười:

- Đó thật là một giai đoạn anh hùng, một thời kỳ đáng sống. Thời đó, trong chúng tôi lúc nào cũng lấy lời Hồ Chủ tịch dạy: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước độc lập, dân được tự do. Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” làm lý tưởng sống của mình. Nay Đảng nói: “Tất cả do dân, vì dân”, tôi chỉ mong không ai phản bội lại lý tưởng ấy.

   
N.Q.H
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • CHÍ CÔNGNghe xã ấy chuẩn bị gặt chiêm, làm được nghĩa vụ lương thực, thuế nông nghiệp và hè thu 1983 sớm hơn các nơi khác, tôi cùng hai cán bộ cơ quan đi về đấy rút kinh nghiệm để có kế hoạch tuyên truyền sát thực tế.

  • VĨNH QUYỀNXe vượt qua một khúc quanh, màu lúa xanh rờn đột ngột hiện ra phía trước. Chúng tôi vừa để lại đằng sau thành phố Huế cổ kính. Hai ngày qua, chúng tôi đã đi thăm và làm việc ở đấy.

  • ĐẶNG THỊ HẠNH                 Tùy bútVề cái thị xã cỏn con mà chúng tôi đến vào cuối đông năm ấy, ký ức tôi giữ lại còn bị giới hạn hơn nữa, do bao giờ không gian về một nơi nào đó ta giữ lại từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, cuối cùng cứ hẹp dần lại để chỉ còn rút lại ở không gian ta quen thuộc nhất.

  • PHAN THỊ THU QUỲCách đây trên 80 năm, trên con đường làng ấy, đến tết, dưới hai bụi tre Là Ngà mát mẻ người ta thường đánh bài chòi. Một công tử họ Phan ở làng Đốc Sơ làm trong triều nội với chức Hàn lâm viện Biên tu, và một thiếu nữ họ Bùi con nhà giàu làng Đốc Bưu, ngồi bên chòi thành hai phe. Hễ công tử đi một con bài thì thiếu nữ trúng và ngược lại.

  • HÀ THÀNHChúng tôi chuẩn bị hành trang theo đoàn công tác đặc biệt của tỉnh Thừa Thiên Huế, sang làm việc với tỉnh Xa-ra-van nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Để chuẩn bị đón nhận các hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở chiến trường Lào về nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)Vào một sáng đầu thu, tôi tìm đến khu tập thể Trung Tự, Hà Nội, nơi nhà văn Bùi Hiển đang sống cùng con cháu. Ông là một trong số những người đầu tiên tham gia thành lập Phân hội Văn nghệ Thừa Thiên tháng 10 năm 1950, tổ chức tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế hiện nay.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Hồi ký(Kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên Hiệp VHNT Thừa Thiên Huế)

  • VŨ ĐÌNH HÒE       Trích đoạn trong cuốn Hồi ký "Pháp quyền - Nhân nghĩa Hồ Chí Minh".

  • THÁI KIM LAN       Viết tặng Lisa Eder

  • PHẠM NGỌC CẢNH                        Bút ký Sau này tôi mới biết cụ Đỗ Tất Lợi. Dành dụm mãi tiền sinh hoạt phí của một anh lính, tôi ra cửa hàng sách quốc văn. Mua một cuốn Nam dược... về đặt đầu giường như cái gối. Gối lên những kỷ niệm về cây, về lá để nhớ thương bà. Những trang viết về cây ngải cứu, cây thạch xương bồ, cây bồ công anh hay như những bài thơ. Những trang viết về củ nghệ, củ gừng, quả mướp đắng, trái me chua phúc dày như kinh Phật.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOKim Mai thân nhớ,Ngày giáp Tết, tôi về miền thơ ấu. Cây đa cổ thụ, ngôi miếu rêu phong vẫn đứng giữa đồng quê như đợi như chờ từ vạn kỷ.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG                               Bút ký Dải đất Việt khi chạy dài vào tới miền Trung thì xép lại trong một khúc eo. Một bên là dãy Trường Sơn hùng vĩ che chắn. Một bên là biển rộng sóng vỗ bờ.

  • NINH GIANG THU CÚC                         Ghi chép Thuở còn bé tí tẹo tôi thường được người lớn kể cho nghe chuyện một anh chồng Cọp đi rước Cô mụ (nữ hộ sinh) cho chị vợ đang đau bụng đẻ.

  • TRÍ NHÂN       Truyện kýNăm 1954, đa số cán bộ, đảng viên ở chiến trường miền đều tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Chỉ có một số ít cán bộ, đảng viên cốt cán được bố trí ở lại trong vùng tạm chiếm để xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức lực lượng đề phòng địch phá hoại Hiệp định đình chiến.

  • NHẤT LÂM         Bút ký Năm 1948, từ đồng bằng huyện Triệu Phong, chúng tôi vượt quốc lộ 1A lên một xã miền núi, xã Phong An. Hồi ấy rừng bạt ngàn vô tận, xã Phong An chỉ cách thị xã Quảng Trị chừng mười cây số, do núi rừng ngút ngàn, mà trở nên xa vời như xứ sở lạ lùng ngàn dặm. Chúng tôi bảo nhau: đề phòng cọp từ bụi rậm vồ tươi như đùa. Nhìn núi cao và cây rừng trùng điệp, con người trở nên hồi hộp, lo sợ mơ hồ; lại đi ban đêm, đi lần đầu giữa rừng, sợ là tất nhiên.

  • HƯƠNG GIANG(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • HOÀI NGUYÊNTiếng tiêu trầm của nỗi cô đơn...

  • TRUNG SƠNTrong số những con vật gần gũi với con người, con mèo không đứng vị trí thứ nhất thì cũng nhì. Chỉ riêng việc chú mèo có đặc quyền thỉnh thoảng "chung chăn" với con người lúc trời mưa rét cũng đủ để xếp chú đứng ở thứ bậc cao trong mối quan hệ với con người. Cũng vì vậy, trong thành ngữ và tục ngữ có nhiều câu nói đến con mèo ngẫm ra khá thú vị.

  • ĐOÀN MINH TUẤN                     Tùy bútĐã từ lâu lắm, nhiều mùa xuân đã qua, nhà văn Đoàn Giỏi có cho tôi mượn cuốn sách rất hay viết về "chó và mèo trên thế giới" của hai tác giả người Pháp Marlyse et Frange.

  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".