Diễn tập đêm - sơn mài của Đỗ Kỳ Hoàng
Anh nói: “Không những đó là nhiệm vụ của chúng tôi, mà còn là một vấn đề tình cảm sâu sắc giữa gia đình ấy với tôi cũng như với một số đông anh chị em hoạt động bí mật ở Quảng Trị trong thời kỳ chống Pháp rồi chống Mỹ”. Thấy anh Hoan, mẹ Mít mừng rỡ quên cả những người đi theo anh. Còn anh, mặc dầu năm bảy tháng lại đến đây, nhưng khi ôm bà mẹ vào lòng, cố nói đùa cho vui, vẫn không giấu nổi xúc động. Nhìn một loạt bằng “Tổ quốc ghi công” treo trên vách của ngôi nhà tranh đơn sơ, lòng chúng tôi thắt lại - chồng, bảy con trai, một con gái, một con dâu, một cháu nội. Ai chưa từng mất chồng, mất con, ai chưa từng có người ruột thịt bị địch tàn sát thì có giàu trí tưởng tượng đến đâu cũng khó mà tưởng tượng nổi, nỗi đau thương của bà mẹ Mít. Anh Hoan nói: mỗi lần bị vật ngã vì một cái tang bất ngờ, lại cố gắng đứng dậy, tiếp tục làm ăn nuôi con, nuôi cán bộ, bộ đội cho đến cái tang bất ngờ khác quật ngã ít lâu sau. Đứa con này hy sinh thì đứa con khác lại lên đường bảo vệ tổ quốc. Không khóc lóc ầm ĩ, không thở than. O Mít là như vậy đó! Mẹ Mít ở một mình, nuôi hai cháu nội còn nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha các cháu là một trong bảy dũng sĩ đã đánh nhau với một tiểu đoàn địch cho đến viên đạn cuối cùng. Mẹ các cháu, chị Phạm Thị Tuyết, đường dây của tỉnh ủy Quảng Trị cũng đã hy sinh vì pháo địch. “Hoàn cảnh của tôi cũng là hoàn cảnh của biết bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác”. Mẹ Mít thường nói như thế với bà con xa gần đến thăm. Bà cũng thường nói như thế với mình trong những đêm không ngủ. Chồng bà là Nguyễn Năng Hải, công nhân đường sắt, tham gia phong trào bí mật từ năm 1939 và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước ngày cách mạng tháng Tám ông là cán bộ xã, giữ đường dây của huyện, đã tích cực góp phần vào cuộc khởi nghĩa của địa phương. Năm 1955, ông bị địch bắt, bị tra tấn nặng nề. Khi ông bị ốm nặng, địch gọi gia đình lên nhà lao Quảng Trị nhận về. Ông nằm liệt cho đến khi chết. Mỗi lần nhắc đến chồng, bà Mít hay thở dài “Cái ông chi lạ. hay làm mà không hay nói. Ông thường dạy vợ con, khuyên hàng xóm rằng người không lao động là người bỏ đi.” Với truyền thống cần cù của người dân Quảng Trị, với sự thúc đẩy và gương mẫu của ông, những đồi trọc chung quanh thôn xóm phủ đầy khoai sắn, vì vậy mới có tên Phường Sắn. Rồi ông lại bảo: “đánh giặc mà chỉ có lương thực chưa đủ. Phải có bao nhiêu thứ khác và trước hết là phải có con người, người cầm súng. Con người ấy không phải trên trời rơi xuống, ở xa lại, mà phải là con, em của thôn xóm”. Thế là ông động viên con cái trong nhà, bà con nội ngoại đi đánh giặc. Mẹ Mít nói: “Có một lần, tôi giận ông nhà tôi quá. Khi thằng con lớn của tôi khăn gói chuẩn bị lên đường, cả nhà rối rít mà ông vẫn điềm nhiên ngồi chẻ lạt. Tôi gắt: “Con đi ông không dặn gì ư?”. Ông ngừng tay, nhìn nó, nhìn lũ con: “Đi đánh giặc thì gặp giặc là đánh có chi mà phải dặn!” Nếu mẹ mày muốn cha dặn thì cha chỉ dặn như thế này: “gặp giặc mà chạy thì xin con cứ chạy luôn, đừng chạy về nhà”. Lúc đó tôi thầm trách ông tim sắt đá nhưng các con tôi thì bảo khi ra đi cho đến khi ngã xuống vẫn ghi sâu lời cha”. Thế rồi, cũng như biết bao nhiêu thanh niên trong thôn xã, các con tôi lần lượt, đứa lớn đi rồi, đứa nhỏ lớn lên lại đi. Lâu lâu có người về cho biết mọi tin tức. Thỉnh thoảng nói về một người nào đó: “anh ấy đã anh dũng hy sinh. Cứ mỗi lần nghe như thế tim tôi muốn ngừng hẳn lại. Tôi nghĩ rằng họ sẽ nói như thế về một đứa con nào đó của tôi. Thế rồi việc đó đã đến, không phải một lần mà không biết bao nhiêu lần…”. Bỏ dỡ câu chuyện, mẹ Mít đứng dậy đi tìm trầu, giỏ trầu để trên bộ ván mà bà lục lọi khắp nhà vẫn không tìm ra. Chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau và lặng lẽ theo anh Hoan ra xem vườn sắn. Anh Hoan đã kể cái chết của anh Nguyễn Năng Phàn. Anh Phàn là cán bộ thông tin xã. Pháp trở lại chiếm đóng Quảng Trị. Cả nhà tản cư lên chiến khu Ba Lòng. Phàn ở lại. Trong xã địch đóng đồn gần nhà thờ La Vang. Ở đây mọi tin tức bị bưng bít và cuộc kháng chiến chống Pháp đã bị xuyên tạc. Địch khủng bố, dân khiếp sợ và tiếng chuông cầu nguyện cho ngày mai ở trên trời cũng làm cho một số khá đông người quên mất những chuyện đang xảy ra dưới đất. Anh Phàn và đồng đội khác đi tuyên truyền, giải thích, khi rỉ rã với từng người, khi giữa đám đông. Một đêm, sau cuộc mít tinh chỗ ngủ của anh bị bao vây. Anh và đồng đội bị sa vào tay giặc. Chúng chặt đến bảy người, vứt xác xuống hố, đem đầu đóng vào các cột tre, bêu ở chợ Diên Sanh ngày 10 tháng 5 năm 1948. Lần đầu tiên nhận được tin một đứa con hy sinh, bà mẹ hoảng hốt và lo lắng. Đau xót tiếc thương đứa vừa ngã xuống, lo lắng thêm cho những đứa còn lại. Nhưng có một điều khiến bà mẹ sửng sốt. Nếu hành động dã man, tàn bạo ấy là của thằng thực dân Pháp, từ xa lắc xa lơ đến đây giết người để cướp nước thì bà còn có thể hiểu được chứ bọn ngụy quân cũng là “người mình” không thương nhau thì thôi, lòng dạ nào mà đi làm cái việc trời không dung, đất không tha ấy. Nhờ xương máu của người con, bà mẹ, một nông dân chất phác, hiền lành chưa từng cắp sách đến trường, cay đắng học được bài học chính trị: ai là ta và ai là địch. Cái chết bi thảm của anh Phàn đã để cho bà mẹ một ấn tượng sâu sắc và nung cho bà mẹ lòng căm thù không những đối với bọn cướp nước mà còn đối với bọn “người mình” nhưng lại là tay sai của giặc, đem thân người làm thân trâu ngựa. Chiến tranh kéo dài - Cuối năm 1952 đầu năm 1953 bà mẹ lại mất thêm hai người con trai nữa. Đuổi được thằng Pháp đi rồi thì thằng Mỹ kéo đến. Chiến tranh lại tiếp diễn. Chiến tranh kéo dài với vũ khí tối tân. Mảnh đất nhỏ hẹp của Quảng Trị, bờ bên này Bến Hải là bãi chiến trường ác liệt nhất của miền Nam nước ta, ngày đêm ngột mùi thuốc súng. Địch từ các cứ điểm bắn ra, trên trời bắn xuống ngoài biển bắn vào, càn đi quét lại. Ở Phường Sắn dường như không cần ai an ủi ai vì không có một gia đình nào mà không có chồng hay con hy sinh vì tổ quốc. Bà mẹ Mít lại phải khóc thêm bốn đứa con trai, một con dâu và đứa con gái độc nhất của mình. Nỗi đau xót, bàng hoàng về tin đứa con thứ bảy Nguyễn Năng Kế, xã đội trưởng Hải Phú, hy sinh trong cuộc tấn công nổi dậy đầu năm 1968 đang còn nóng bỏng thì một tiếng sét nữa nổ ra làm tan nát lòng người mẹ. Người con trai út của bà, đứa con cưng nhất của bà đã hy sinh trên rừng, sau ngày anh Kế hy sinh chỉ có bốn hôm. Chuyện xảy ra đã mười mấy năm, nhưng khi nhắc đến, anh Hoan vẫn thấy nghẹn ngào. Im lặng hồi lâu anh thở dài bảo tôi: “Biết nói làm sao với chị đây để chị có thể hiểu được tâm trạng của tôi khi nghe tin ấy: sửng sốt, hốt hoảng, đau xót, căm giận, ân hận, lo lắng… Tôi lo không biết ăn làm sao, nói làm sao với bà mẹ. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này: “Năm 1966, một đêm đi qua Hải Phú tôi ghé thăm O Mít. Vừa thấy tôi, một thanh niên reo lên: “Ôi chú Hoan đây rồi! Trông chú mãi!” Tôi ngạc nhiên nhìn cậu con trai cao lớn, khỏe mạnh đang sung sướng lao đến, ôm chầm lấy tôi. Tôi nhận ra thằng con út của O Mít. - Mày ăn gì mà mau lớn vậy, hở Thành? - Tôi hỏi. Nó toét miệng cười: “Phải mau lớn để đi với chú chứ!” Nó năn nỉ: “Lần này thì chú phải cho cháu đi, nhất định phải cho cháu đi với chú nghe!” - Đi mô! Các anh chị đi hết rồi, mày cũng đi nốt thì mẹ ở với ai? Nó xịu mặt: “Không được đi với chú thì cháu đi tìm mấy anh du kích, ở nhà để cầm súng cho địch hay sao? O Mít nãy giờ lặng lẽ đứng nghe hai chú cháu nói qua lại bây giờ thêm chen vô: “Nó nói cũng phải, anh Hoan ạ. Tôi đã trăn trở nhiều đêm để nghĩ về nó. Nó đi thì tôi cô đơn quá nhưng ở với tôi không sớm thì muộn cũng bị bắt lính thôi. Thà chết mà bảo vệ tổ quốc còn hơn sống mà đi làm bia đỡ đạn cho giặc, đi đốt phá xóm làng, giết hại bà con. Và chắc chi cầm súng cho địch mà không chết! Thấy nó đòi đi tôi có hẹn: chờ chú Hoan về mẹ dặn điều này, rồi mầy đi đâu thì đi”. O nắm chặt tay tôi, nói nhỏ với tôi: “Nói anh đừng cười, đừng cho con mẹ già này lẩm cẩm. Ai chứ anh thì quá biết hoàn cảnh của tôi. Bây giờ thì tôi giao nốt đứa con còn sót lại của tôi cho cách mạng, chỉ yêu cầu anh một điều. Anh đem nó lên cho nó làm bất cứ công việc gì mà cách mạng cần miễn sao nó đừng chết!” Tôi ôm O vào lòng, không sao tìm được một lời nói nào để nói với bà mẹ đau thương và cao cả ấy. Khuya hôm đó Thành đi với tôi lên chiến khu. Tôi bố trí cho nó ở tổ điện đài, căn dặn anh em không được cho nó về đồng bằng. Trở về vùng bị chiếm tôi an tâm mỗi lần nghĩ đến nó, nghĩ đến O Mít. Đùng một cái tôi được tin nó chết. Một bầy pháo chùm của địch rơi trúng cơ quan điện đài. Tất cả anh em đều hy sinh. Dẫu biết rằng trước sự đau thương cùng cực của bà mẹ tất cả những lời an ủi đều vô nghĩa nhưng tôi quyết định thế nào cũng phải về thăm O Mít. Tôi đến Hải Phú ở nhà một cơ sở định bàn bạc xong một vài công việc với các đồng chí ở xã rồi sẽ qua Phường Sắn. Anh chị em cho biết khi được tin Thành chết bà mẹ ngất đi, nằm liệt giường liệt chiếu, không rên rĩ, không khóc lóc và cũng không ăn uống. Bà con láng giềng thay nhau ở bên cạnh bà. Ai cũng lo nếu không chết thì bà mẹ cũng hóa điên thôi. Thế mà O tỉnh dần. Có lẽ hai đứa cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, còn bé dại, đã đưa bà trở lại với cuộc sống. Tôi chưa kịp đến Phường Sắn thì O Mít đã đến tìm tôi. Thấy O tôi lặng người đi. Thương O quá. O phờ phạc. Đôi mắt khô héo. O bình tĩnh, một sự bình tĩnh đáng sợ. O bảo tôi: “Họp xong anh về nhà ăn cơm. Tôi ngồi đây chơi, chờ anh”. Trên đường về tôi lặng lẽ đi bên cạnh O. O nói: “Anh cứ về nhà tôi mà ở, đừng ngại mà cũng đừng buồn”. Rồi O thở dài: “Thằng Thành tôi chết đâu phải tại anh. Anh lo cho nó thế là chí tình lắm rồi. Tại thằng địch cả. Còn thằng địch thì còn chết chóc đau thương và những người mẹ như tôi còn đứt ruột, đứt gan. Anh xem, ở cái thôn của mình đây có nhà nào mà không có liệt sĩ đâu. Nếu bà con cũng đông con như tôi thì sự mất mát đau khổ của họ cũng nhiều như tôi thôi. Thằng giặc đến cướp nước, giết hại dân ta, thanh niên khỏe mạnh không cầm súng giết giặc cứu nước thì còn ra cái thứ gì. Có đứa nào chịu ngồi yên đâu. Giữ làm sao nổi. Cấm làm sao được. Tôi tức không còn đứa nào nữa chứ còn thì tôi cũng giao nốt cho anh. Còn tôi, anh Hoan ạ, anh cứ giao việc cho tôi như trước. Tôi tuy già yếu nhưng chưa đến nỗi nào. Anh đừng để tôi ra ngoài”. “O Mít là như vậy đó!” Anh Hoan lại nói như thế về bà mẹ Phường Sắn. N.K.B.L. (8/8-84) |
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...