Bà mẹ phường sắn

09:14 01/12/2010
NGUYỄN KHOA BỘI LANChúng tôi đi theo anh Hoan, bí thư huyện ủy Triệu Hải, về kiểm tra vụ đông xuân. Anh có thói quen mỗi lần về đây thế nào cũng tranh thủ ghé Phường Sắn thăm bà mẹ Mít.

Diễn tập đêm - sơn mài của Đỗ Kỳ Hoàng

Anh nói: “Không những đó là nhiệm vụ của chúng tôi, mà còn là một vấn đề tình cảm sâu sắc giữa gia đình ấy với tôi cũng như với một số đông anh chị em hoạt động bí mật ở Quảng Trị trong thời kỳ chống Pháp rồi chống Mỹ”.

Thấy anh Hoan, mẹ Mít mừng rỡ quên cả những người đi theo anh. Còn anh, mặc dầu năm bảy tháng lại đến đây, nhưng khi ôm bà mẹ vào lòng, cố nói đùa cho vui, vẫn không giấu nổi xúc động.

Nhìn một loạt bằng “Tổ quốc ghi công” treo trên vách của ngôi nhà tranh đơn sơ, lòng chúng tôi thắt lại - chồng, bảy con trai, một con gái, một con dâu, một cháu nội. Ai chưa từng mất chồng, mất con, ai chưa từng có người ruột thịt bị địch tàn sát thì có giàu trí tưởng tượng đến đâu cũng khó mà tưởng tượng nổi, nỗi đau thương của bà mẹ Mít.

Anh Hoan nói: mỗi lần bị vật ngã vì một cái tang bất ngờ, lại cố gắng đứng dậy, tiếp tục làm ăn nuôi con, nuôi cán bộ, bộ đội cho đến cái tang bất ngờ khác quật ngã ít lâu sau. Đứa con này hy sinh thì đứa con khác lại lên đường bảo vệ tổ quốc. Không khóc lóc ầm ĩ, không thở than. O Mít là như vậy đó!

Mẹ Mít ở một mình, nuôi hai cháu nội còn nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha các cháu là một trong bảy dũng sĩ đã đánh nhau với một tiểu đoàn địch cho đến viên đạn cuối cùng. Mẹ các cháu, chị Phạm Thị Tuyết, đường dây của tỉnh ủy Quảng Trị cũng đã hy sinh vì pháo địch.

“Hoàn cảnh của tôi cũng là hoàn cảnh của biết bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác”. Mẹ Mít thường nói như thế với bà con xa gần đến thăm. Bà cũng thường nói như thế với mình trong những đêm không ngủ.

Chồng bà là Nguyễn Năng Hải, công nhân đường sắt, tham gia phong trào bí mật từ năm 1939 và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước ngày cách mạng tháng Tám ông là cán bộ xã, giữ đường dây của huyện, đã tích cực góp phần vào cuộc khởi nghĩa của địa phương. Năm 1955, ông bị địch bắt, bị tra tấn nặng nề. Khi ông bị ốm nặng, địch gọi gia đình lên nhà lao Quảng Trị nhận về. Ông nằm liệt cho đến khi chết.

Mỗi lần nhắc đến chồng, bà Mít hay thở dài “Cái ông chi lạ. hay làm mà không hay nói. Ông thường dạy vợ con, khuyên hàng xóm rằng người không lao động là người bỏ đi.” Với truyền thống cần cù của người dân Quảng Trị, với sự thúc đẩy và gương mẫu của ông, những đồi trọc chung quanh thôn xóm phủ đầy khoai sắn, vì vậy mới có tên Phường Sắn. Rồi ông lại bảo: “đánh giặc mà chỉ có lương thực chưa đủ. Phải có bao nhiêu thứ khác và trước hết là phải có con người, người cầm súng. Con người ấy không phải trên trời rơi xuống, ở xa lại, mà phải là con, em của thôn xóm”. Thế là ông động viên con cái trong nhà, bà con nội ngoại đi đánh giặc.

Mẹ Mít nói: “Có một lần, tôi giận ông nhà tôi quá. Khi thằng con lớn của tôi khăn gói chuẩn bị lên đường, cả nhà rối rít mà ông vẫn điềm nhiên ngồi chẻ lạt. Tôi gắt: “Con đi ông không dặn gì ư?”. Ông ngừng tay, nhìn nó, nhìn lũ con: “Đi đánh giặc thì gặp giặc là đánh có chi mà phải dặn!” Nếu mẹ mày muốn cha dặn thì cha chỉ dặn như thế này: “gặp giặc mà chạy thì xin con cứ chạy luôn, đừng chạy về nhà”. Lúc đó tôi thầm trách ông tim sắt đá nhưng các con tôi thì bảo khi ra đi cho đến khi ngã xuống vẫn ghi sâu lời cha”.

Thế rồi, cũng như biết bao nhiêu thanh niên trong thôn xã, các con tôi lần lượt, đứa lớn đi rồi, đứa nhỏ lớn lên lại đi. Lâu lâu có người về cho biết mọi tin tức. Thỉnh thoảng nói về một người nào đó: “anh ấy đã anh dũng hy sinh. Cứ mỗi lần nghe như thế tim tôi muốn ngừng hẳn lại. Tôi nghĩ rằng họ sẽ nói như thế về một đứa con nào đó của tôi. Thế rồi việc đó đã đến, không phải một lần mà không biết bao nhiêu lần…”.

Bỏ dỡ câu chuyện, mẹ Mít đứng dậy đi tìm trầu, giỏ trầu để trên bộ ván mà bà lục lọi khắp nhà vẫn không tìm ra. Chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau và lặng lẽ theo anh Hoan ra xem vườn sắn. Anh Hoan đã kể cái chết của anh Nguyễn Năng Phàn.

Anh Phàn là cán bộ thông tin xã. Pháp trở lại chiếm đóng Quảng Trị. Cả nhà tản cư lên chiến khu Ba Lòng. Phàn ở lại. Trong xã địch đóng đồn gần nhà thờ La Vang. Ở đây mọi tin tức bị bưng bít và cuộc kháng chiến chống Pháp đã bị xuyên tạc. Địch khủng bố, dân khiếp sợ và tiếng chuông cầu nguyện cho ngày mai ở trên trời cũng làm cho một số khá đông người quên mất những chuyện đang xảy ra dưới đất. Anh Phàn và đồng đội khác đi tuyên truyền, giải thích, khi rỉ rã với từng người, khi giữa đám đông. Một đêm, sau cuộc mít tinh chỗ ngủ của anh bị bao vây. Anh và đồng đội bị sa vào tay giặc. Chúng chặt đến bảy người, vứt xác xuống hố, đem đầu đóng vào các cột tre, bêu ở chợ Diên Sanh ngày 10 tháng 5 năm 1948.

Lần đầu tiên nhận được tin một đứa con hy sinh, bà mẹ hoảng hốt và lo lắng. Đau xót tiếc thương đứa vừa ngã xuống, lo lắng thêm cho những đứa còn lại. Nhưng có một điều khiến bà mẹ sửng sốt. Nếu hành động dã man, tàn bạo ấy là của thằng thực dân Pháp, từ xa lắc xa lơ đến đây giết người để cướp nước thì bà còn có thể hiểu được chứ bọn ngụy quân cũng là “người mình” không thương nhau thì thôi, lòng dạ nào mà đi làm cái việc trời không dung, đất không tha ấy. Nhờ xương máu của người con, bà mẹ, một nông dân chất phác, hiền lành chưa từng cắp sách đến trường, cay đắng học được bài học chính trị: ai là ta và ai là địch.

Cái chết bi thảm của anh Phàn đã để cho bà mẹ một ấn tượng sâu sắc và nung cho bà mẹ lòng căm thù không những đối với bọn cướp nước mà còn đối với bọn “người mình” nhưng lại là tay sai của giặc, đem thân người làm thân trâu ngựa.

Chiến tranh kéo dài - Cuối năm 1952 đầu năm 1953 bà mẹ lại mất thêm hai người con trai nữa.

Đuổi được thằng Pháp đi rồi thì thằng Mỹ kéo đến. Chiến tranh lại tiếp diễn. Chiến tranh kéo dài với vũ khí tối tân. Mảnh đất nhỏ hẹp của Quảng Trị, bờ bên này Bến Hải là bãi chiến trường ác liệt nhất của miền Nam nước ta, ngày đêm ngột mùi thuốc súng. Địch từ các cứ điểm bắn ra, trên trời bắn xuống ngoài biển bắn vào, càn đi quét lại.

Ở Phường Sắn dường như không cần ai an ủi ai vì không có một gia đình nào mà không có chồng hay con hy sinh vì tổ quốc. Bà mẹ Mít lại phải khóc thêm bốn đứa con trai, một con dâu và đứa con gái độc nhất của mình.

Nỗi đau xót, bàng hoàng về tin đứa con thứ bảy Nguyễn Năng Kế, xã đội trưởng Hải Phú, hy sinh trong cuộc tấn công nổi dậy đầu năm 1968 đang còn nóng bỏng thì một tiếng sét nữa nổ ra làm tan nát lòng người mẹ. Người con trai út của bà, đứa con cưng nhất của bà đã hy sinh trên rừng, sau ngày anh Kế hy sinh chỉ có bốn hôm.

Chuyện xảy ra đã mười mấy năm, nhưng khi nhắc đến, anh Hoan vẫn thấy nghẹn ngào. Im lặng hồi lâu anh thở dài bảo tôi: “Biết nói làm sao với chị đây để chị có thể hiểu được tâm trạng của tôi khi nghe tin ấy: sửng sốt, hốt hoảng, đau xót, căm giận, ân hận, lo lắng… Tôi lo không biết ăn làm sao, nói làm sao với bà mẹ. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này:

“Năm 1966, một đêm đi qua Hải Phú tôi ghé thăm O Mít. Vừa thấy tôi, một thanh niên reo lên: “Ôi chú Hoan đây rồi! Trông chú mãi!” Tôi ngạc nhiên nhìn cậu con trai cao lớn, khỏe mạnh đang sung sướng lao đến, ôm chầm lấy tôi. Tôi nhận ra thằng con út của O Mít.

- Mày ăn gì mà mau lớn vậy, hở Thành? - Tôi hỏi.

Nó toét miệng cười: “Phải mau lớn để đi với chú chứ!”

Nó năn nỉ: “Lần này thì chú phải cho cháu đi, nhất định phải cho cháu đi với chú nghe!”

- Đi mô! Các anh chị đi hết rồi, mày cũng đi nốt thì mẹ ở với ai?

Nó xịu mặt: “Không được đi với chú thì cháu đi tìm mấy anh du kích, ở nhà để cầm súng cho địch hay sao?

O Mít nãy giờ lặng lẽ đứng nghe hai chú cháu nói qua lại bây giờ thêm chen vô: “Nó nói cũng phải, anh Hoan ạ. Tôi đã trăn trở nhiều đêm để nghĩ về nó. Nó đi thì tôi cô đơn quá nhưng ở với tôi không sớm thì muộn cũng bị bắt lính thôi. Thà chết mà bảo vệ tổ quốc còn hơn sống mà đi làm bia đỡ đạn cho giặc, đi đốt phá xóm làng, giết hại bà con. Và chắc chi cầm súng cho địch mà không chết! Thấy nó đòi đi tôi có hẹn: chờ chú Hoan về mẹ dặn điều này, rồi mầy đi đâu thì đi”.

O nắm chặt tay tôi, nói nhỏ với tôi: “Nói anh đừng cười, đừng cho con mẹ già này lẩm cẩm. Ai chứ anh thì quá biết hoàn cảnh của tôi. Bây giờ thì tôi giao nốt đứa con còn sót lại của tôi cho cách mạng, chỉ yêu cầu anh một điều. Anh đem nó lên cho nó làm bất cứ công việc gì mà cách mạng cần miễn sao nó đừng chết!”

Tôi ôm O vào lòng, không sao tìm được một lời nói nào để nói với bà mẹ đau thương và cao cả ấy. Khuya hôm đó Thành đi với tôi lên chiến khu. Tôi bố trí cho nó ở tổ điện đài, căn dặn anh em không được cho nó về đồng bằng. Trở về vùng bị chiếm tôi an tâm mỗi lần nghĩ đến nó, nghĩ đến O Mít. Đùng một cái tôi được tin nó chết. Một bầy pháo chùm của địch rơi trúng cơ quan điện đài. Tất cả anh em đều hy sinh.

Dẫu biết rằng trước sự đau thương cùng cực của bà mẹ tất cả những lời an ủi đều vô nghĩa nhưng tôi quyết định thế nào cũng phải về thăm O Mít. Tôi đến Hải Phú ở nhà một cơ sở định bàn bạc xong một vài công việc với các đồng chí ở xã rồi sẽ qua Phường Sắn. Anh chị em cho biết khi được tin Thành chết bà mẹ ngất đi, nằm liệt giường liệt chiếu, không rên rĩ, không khóc lóc và cũng không ăn uống. Bà con láng giềng thay nhau ở bên cạnh bà. Ai cũng lo nếu không chết thì bà mẹ cũng hóa điên thôi. Thế mà O tỉnh dần. Có lẽ hai đứa cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, còn bé dại, đã đưa bà trở lại với cuộc sống.

Tôi chưa kịp đến Phường Sắn thì O Mít đã đến tìm tôi. Thấy O tôi lặng người đi. Thương O quá. O phờ phạc. Đôi mắt khô héo. O bình tĩnh, một sự bình tĩnh đáng sợ. O bảo tôi: “Họp xong anh về nhà ăn cơm. Tôi ngồi đây chơi, chờ anh”.

Trên đường về tôi lặng lẽ đi bên cạnh O. O nói: “Anh cứ về nhà tôi mà ở, đừng ngại mà cũng đừng buồn”. Rồi O thở dài: “Thằng Thành tôi chết đâu phải tại anh. Anh lo cho nó thế là chí tình lắm rồi. Tại thằng địch cả. Còn thằng địch thì còn chết chóc đau thương và những người mẹ như tôi còn đứt ruột, đứt gan. Anh xem, ở cái thôn của mình đây có nhà nào mà không có liệt sĩ đâu. Nếu bà con cũng đông con như tôi thì sự mất mát đau khổ của họ cũng nhiều như tôi thôi. Thằng giặc đến cướp nước, giết hại dân ta, thanh niên khỏe mạnh không cầm súng giết giặc cứu nước thì còn ra cái thứ gì. Có đứa nào chịu ngồi yên đâu. Giữ làm sao nổi. Cấm làm sao được. Tôi tức không còn đứa nào nữa chứ còn thì tôi cũng giao nốt cho anh. Còn tôi, anh Hoan ạ, anh cứ giao việc cho tôi như trước. Tôi tuy già yếu nhưng chưa đến nỗi nào. Anh đừng để tôi ra ngoài”.

“O Mít là như vậy đó!” Anh Hoan lại nói như thế về bà mẹ Phường Sắn.

N.K.B.L.
(8/8-84)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách