Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.
Nhà văn Ferit Edgü - Ảnh: internet
Các tập truyện ngắn của ông gồm có “Hunting - 1968”, “On Shipboard - giải thưởng Sait Faik Short Story Award năm 1979”, và “Eastern Tales, 1996”. Ông còn có những giải thưởng khác: “Class Notes - giải thưởng về lý luận của Hội Ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ”, “It was a Summer in the Shadow of September - giải thưởng văn chương Sedat Simavi Literature Award 1988”, “Words for a Voyage, 1996” và “Mountain Poems, 1999” là những tập thơ quan trọng của ông.
Truyện ngắn dưới đây do Sedat Cilingir, Ali Engin và Senay Kara chuyển ngữ từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ sang tiếng Anh. Bản dịch tiếng Việt theo các dịch giả trên.
FERIT EDGÜ (Thổ Nhĩ Kỳ)
Ba lần rơi
I.
Tôi là một con chim. Tôi đang bay. Tôi gần như nghẹn ngào vì hạnh phúc khi tung cánh trong không trung.
Tôi không phải là một con chim trong khoảng thời gian giữa ngủ và thức, tôi hiểu mình không phải là một con chim; hay nói cách khác tôi là một sinh vật biết rằng mình không phải là chim nhưng lại là chim, có thể bay như chim, tung cánh vào khoảng không. (Một con người?). Mày biết rằng mày không phải là chim tôi tự nhủ. Mày là người, đừng để việc bay bổng dối gạt mày. Đó là một giấc mơ, và trong những giấc mơ người ta cũng có thể bay. Nhưng không phải là chim, tôi tự trả lời.
Tôi một mình trong giường ngủ. Ngay khi tranh luận xong tôi lại chìm vào giấc ngủ. Một lần nữa tôi lại là một con chim tung cánh trong không trung. Tôi lao mình xuống. Đôi cánh tôi gần như chạm vào mặt nước (có một cái hồ phía dưới tôi). Tôi bốc lên ngay bằng cách vỗ cánh. Tôi tiếp tục bay lên cho tới khi tôi hết sức. Rồi một lần nữa lao xuống… Lao xuống nghĩa là thả mình rơi không vỗ cánh. Không vỗ cánh, nặng hơn không khí, hướng về mặt đất… Tôi thấy người thợ săn đàng sau đám sậy bên hồ trong khi tôi liệng mình. Tôi vỗ cánh hai lần, và lại bay lên. Nhưng sao thế này! Tiếng nổ và một cơn đau nơi ngực tôi. Tôi mất thăng bằng. Đôi cánh yếu của tôi làm tôi đau không chịu nỗi khi tôi đập cánh. Tôi đang rơi. Cây cối, bụi rậm và mặt đất đang tiến lại gần tôi hơn, hay là tôi đang tiến lại gần chúng hơn? Cả hai đều có cùng một nghĩa. Tôi lại vỗ cánh để khỏi rơi. Nhưng đôi cánh yếu không thể nâng tôi lên.
Tôi đang chệch hướng bay giữa những lùm cây và bụi rậm, một vài mét bên trên mặt đất. Đừng rơi! Tôi nói với mình. Nếu mày rơi, thì rơi sẽ là sự kết thúc của mày.
Khi mày đang trong những cơn đau quằn quại chờ chết, một con chó chạy đến và kết liễu mày. Tôi ráng sức để không rơi. Khi tôi đập cánh cơn đau bùng phát ghê gớm, vì thế tôi chỉ hơi bay lên. Trong lúc đó, một tiếng nói nội tâm bảo tôi rằng tôi là một con chim thần thánh và rằng khi tôi trút ra hơi thở cuối cùng (tôi trút ra hơi thở cuối cùng với ai, với một con chó hay với một con người?) một con chim mới sẽ bay thoát lên từ cái chết của tôi. Thoát ra từ tro tàn của tôi… Một con chim mới…
Tôi có lại là con chim sẽ cất cánh bay lên đó hay không?
Tôi càng lúc càng khó khăn khi vỗ cánh cùng những câu hỏi này. Tôi đang tìm một lùm bụi. Bây giờ tôi biết mình không thể bay cao lên hơn nữa. Tôi đang tìm một lùm bụi để sống sót, để hít một hơi và nghỉ ngơi. Một lùm bụi sẽ bắt đầu đốt lên ngọn lửa trong ngực tôi ngay khi tôi rơi, và sẽ, cũng đốt cháy tôi. Và tôi thấy lùm bụi đó. Lùm bụi rậm tạo thành một khối ở xa hồ, phía dưới rừng thông. Khi tôi đến đó tôi thôi vỗ cánh. Tôi thả mình rơi xuống. Khi bụi rậm đâm xuyên lớp lông thấu vào da thịt tôi, tôi thắc mắc chút nữa đây làm sao tôi có thể bay lên lại. Tôi nghe thấy tiếng chó sủa thay vì sức nóng của lửa. Tôi vật vã mình giữa bụi rậm để khi con chó đến và kết liễu tôi thì tôi đã chết và lại bay lên. Cũng có thể đó là một con chó thông minh. Nó biết là khi lao vào bụi rậm, thì không có đường ra. Tôi chiêm chiếp rít lên, nhưng giọng tôi bị nghẹt. Khao khát lửa. Tiếng chiêm chiếp của một con chim ước được chết đi cho dù nó không thể bay lên trở lại. Tôi cho là con chó nghe được tiếng rít của tôi, nó quay mình lại và bắt đầu bỏ chạy. Người thợ săn hoang mang nhìn chung quanh và nhìn con chó.
II.
Tôi là người thợ săn trong giấc mơ thứ hai của tôi.
Có một con chim trong bầu trời, khá lớn và khá đẹp… không giống với con chim nào tôi từng thấy trước đây. Tôi có thể gọi nó là gì, một con công hay là con phượng hoàng? Tôi không biết. Chưa bao giờ tôi săn được một con như vậy, hay từng thấy một con như vậy bị săn.
Cầm cây súng săn chúi nòng xuống đất, trong một hồi lâu, trong một hồi khá lâu tôi nhìn con chim bay trên bầu trời. Hoàn toàn đơn độc. Có vẻ như con chim say mê sự bay bổng. Sau cùng thì lòng ham mê săn bắn chiến thắng. Tôi chầm chậm nâng nòng súng lên trời. Tôi nhắm vào con chim (cứ như là) tôi không thể không làm việc đó. Và tôi kéo cò.
Hai phát súng, phát này sau phát kia. Vài cánh lông trôi trong không khí. Con chim có vẻ như rơi xuống nhưng rồi lại bay lên. Nhưng nó không còn bay theo cách như trước. Nó không lượn trong không trung. Nó giống như con cừu tế thần loạng choạng trên mặt đất, chỉ khác là nó loạng choạng trên không trung. Ước gì nó rơi trên bờ chứ đừng rơi xuống hồ. Trong nhiều phút hay nhiều giây tôi không biết (dường như khá lâu đối với tôi, còn với nó thì sao?) con chim cố gắng bay lên. Rồi kiệt sức, nó bắt đầu rơi, lảo đảo. Sự yếu sức của nó, đôi cánh bị thương của nó không thể thắng được lực hấp dẫn. Còn cách mặt đất vài mét, có vẻ như nó lấy lại được thăng bằng. Nhưng nó không thể bay lên. Mà cũng không rớt xuống. Nó bay song song với mặt đất. Dường như nó tìm một nơi trú ẩn, một nơi mà tôi hay con chó của tôi không thể tìm thấy, hay không thể với tới nếu chúng tôi tìm thấy nó.
Nó tiếp tục bay thêm một lát như thể bị trôi giạt. Rồi nó rơi xuống như một ngôi sao băng vào một lùm bụi (dường như nó đã chọn đó là đích đến của nó). Con chó của tôi đã chạy đến chỗ nó rơi xuống rồi. Con chó đang sủa bên lùm bụi. Nhưng nó sủa tuyệt vọng. Nó sợ vào lùm bụi. Hai tai cụp xuống, mệt mỏi vì sủa, nó vội chạy về phía tôi. Nó thả đuôi rũ giữa hai chân, đầu cứ cúi xuống như thể xấu hổ…
III.
Trong giấc mơ thứ ba của tôi tôi thấy mình là một con chó. Một con chó săn gầy nhẳng, mình dài, nhiều nghĩ ngợi, chăm chú và mũi dí sát đất. Người thợ săn. Ông ta để mặc tôi tự do khi chúng tôi đến hồ. Mặc tôi một mình với con mồi của tôi. Tôi nhìn quanh, không có con mồi nào. Người thợ săn không nhìn tôi. Ông nhìn lên trời. Ông cứ nhìn trời. Trước đây tôi không biết người thợ săn này. Ông không phải là người đã huấn luyện tôi (chủ tôi). Nhưng tôi không nhớ được người chủ thật sự của tôi, mùi của ông hay mặt của ông. Hai người lạ (Tôi: con chó, ông ta: người thợ săn), chúng tôi đang đi săn.
Con chó và người thợ săn. Người thợ săn và con chó.
Có gì là quan trọng việc chúng tôi quen hay không quen nhau? Có gì là quan trọng việc ông ta có phải là người chủ thực sự của tôi hay không? Số phận và đam mê hẳn đã ghép chúng tôi lại với nhau.
Tôi cảm thấy muốn nhìn mặt người đàn ông tôi đã bị kết hợp bởi số phận và đam mê này. Nhưng ông ta thì cao và đầu ông ngẩng lên trời làm tôi không thể nhìn thấy mặt ông. Mắt tôi đã không chạm mắt ông từ khi chúng tôi khởi hành đi săn. Ông không hề cúi thấp đầu. Một con chim đang bay trên trời. Chắc là ông ta nhìn con chim. Mới đầu tôi cho đó là một con diều hâu. Vì nó khá lớn. Rồi tôi nhận ra những màu lông của nó. Những cánh lông trắng, đen và đỏ. Tôi chưa hề thấy con chim nào như vậy trước đây. Tôi bắt đầu sủa. Tôi chạy về phía hồ sủa đuổi những con vịt trời bay lên cho người thợ săn nhìn thấy chúng. Những con vịt trời bay, nhưng người thợ săn không chú ý đến chúng. Tôi ngồi dưới chân người thợ săn (như đã được huấn luyện). Ngay khi tôi ngồi tôi nghe được tiếng súng và bắt đầu chạy. Đến nơi tôi đoán có con chim tuyệt vọng, đập cánh trên không, sẽ rơi xuống.
Con chim ráng hết sức để không rơi. Nhưng nó đang vỗ cánh yếu ớt. Giờ thì tôi biết tôi đang đi cùng một người thợ săn tồi. Hai phát súng, phát này sau phát kia, vậy mà con chim vẫn sống. Nó sẽ chết, nhưng không phải chết trên trời. Hiển nhiên là nó đã bị thương chí tử. “Bên trái!”, người thợ săn nói. Nhưng tôi sẽ mang về cái gì đây? Con chim không rơi xuống đất hay xuống hồ. Nó vẫn còn trên không.
Tôi đang chạy. Con chim sắp rơi. Nó vẫn đập cánh phía bên trên tôi. Nó cố không rơi xuống. Rồi con chim đột ngột kiệt sức thả mình rơi vào lùm bụi. Một lùm bụi không thể vào và đem con chim ra. Tất cả những gì tôi có thể làm là sủa. Rồi tôi cũng mệt vì sủa. Tránh xa con mồi và người thợ săn, tôi bắt đầu chạy, có lẽ về nơi vô định.
Tôi là người thợ săn đang thức dậy
Là con chim đang thức dậy
Là con chó đang thức dậy
Và…
Võ Hoàng Minh dịch
(SH282/08-12)
LTS: Henri Troyat (1-11-1911_4-3-2007) sinh tại Matx-cơ-va, định cư ở Pháp kể từ 1920, thuộc Viện Hàn lâm quốc gia Pháp từ 1959, một trong những cây bút viết khỏe nhất của văn học Pháp hiện đại. Chuyên viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Ngoài ra, nghiên cứu về Đốtx-tôi-ép-xki, Tôn-xtôi, Lét-mông-tốp, Ô-la, Ban-zắc… Truyện ngắn của ông giàu nét dí dỏm, ký họa.
Atiq Rahimi sinh năm 1962 tại Afghanistan, nhưng đến sống ở Pháp vào năm 1984. Tại Pháp ông trở thành một nhà văn, nhà làm phim tài liệu và phim truyện nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông “The Patience Stone - “Nhẫn thạch” được giải thưởng danh giá Prix Goncourt năm 2008. Phim dựa trên tiểu thuyết của ông “Earth and Ashes - Đất và Tro” được tuyển chọn chính thức tại liên hoan phim Cannes năm 2004 và được một số giải thưởng.
IVAN XÔCHIVESNgười chồng lý tưởng - đấy là tôi. Mẹ vợ, vợ tôi và đa số bạn gái của nàng đều gọi tôi như vậy.
LTS: Nhà văn Xô-viết Alêchxây Marinat là tác giả nổi tiếng của một số tiểu thuyết và kịch. Nhưng những tác phẩm làm cho ông nổi tiếng trước hết đối với tất cả các độc giả là những truyện ngắn hài hước. Tính hài hước trong các truyện ngắn của ông rất nhẹ nhàng nhưng sắc sảo. “Hoa tặng Ka-lum-ba” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Alêchxây Marinat.
LTS: Vaxin Bưcốp sinh năm 1924 tại làng Tsê-rê-pốp-si-na, vùng Vi-tép-xcơ, nước cộng hòa Bêlôruxia. Ông từng đứng trong hàng ngũ quân đội Xô Viết chiến đấu chống phát-xít Đức. Tác phẩm của ông bắt đầu được xuất bản từ năm 1956. Ông thuộc một trong những tác giả viết về chiến tranh nổi tiếng của Liên Xô. Những tác phẩm của ông được nhiều người biết đến là: Phát tên lửa thứ ba, cuộc hành quân núi An-pơ, những người chết không biết đến xấu hổ, những con chó sói… ông đã nhận giải thưởng quốc gia của Liên Xô, giải thưởng I-a-cúp Kô-la-xơ của nước cộng hòa.
LTS: William Somerset Maugham (1874 - 1965) là một nhà văn Anh nổi tiếng, viết nhiều, với bút pháp hiện thực sắc sảo, soi rọi những khía cạnh mâu thuẫn nghịch chiều của cuộc sống, phác hiện những nét sâu kín của bản tính con người. Lối văn của ông trong sáng, khúc chiết, ông lại có biệt tài dẫn truyện hấp dẫn, lý thú, đặc biệt phong cách của ông thường hài hước, sâu cay.Là nhà văn đa tài, ông vừa là tiểu thuyết gia có tiếng, vừa là người viết truyện ngắn bậc thầy, và cũng là một kịch tác gia thành công.
NOBUKO TAKAGI(Tiếp theo Sông Hương số 256 tháng 6 - 2010)
LTS: Tên tuổi Azit Nê-xin đã trở nên quen thuộc với chúng ta. Là tác giả của tập truyện châm biếm nổi tiếng “Những người thích đùa” đã được dịch ra tiếng Việt, ông là trưởng đoàn nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ dự hội nghị BCH Hội Nhà văn Á Phi và cuộc gặp gỡ các nhà văn Á Phi ở nước ta vào tháng 10-1982.
A-đa-mô-vích sinh ra và lớn lên cùng cha mẹ trong làng công nhân ở Gơ-lu-sa, tại Bi-ê-lô-rút-xi-a. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhà văn mới 14 tuổi nhưng đã theo mẹ và anh tiếp tế cho du kích quân.
LGT: Bóng cây phong lan được trích từ tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản có nhan đề chung Bên trong do Nhà xuất bản Kodansha tuyển chọn và giới thiệu, được Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) tổ chức dịch ra tiếng Việt và phát hành ở trong nước. Tuyển tập gồm 8 truyện ngắn của 8 nhà văn nữ với đề từ chung: Phụ nữ Nhật viết về phụ nữ Nhật. Bên trong là nhan đề, mà cũng là chủ đề của tất cả các truyện: Phía trong tâm hồn và phía trong thân thể của người phụ nữ.
EDWARD D. HOCHGần như ngay từ ngày cưới của họ cách đây 17 năm, William Willis đã căm ghét vợ mình, nhưng chưa một lần nào anh ta nghĩ đến chuyện giết người. Anh ta sẵn lòng ở ngoài suốt cả ngày, lái xe tới cơ quan mỗi sáng, quay trở về nhà mỗi tối, và đơn giản là bỏ ngoài tai cái giọng lải nhải đều đều của vợ.
LTS. S. Rajaratnam thuộc thế hệ những nhà văn cũ của Singapo. Ông có thời làm Bộ trưởng Ngoại giao của Singapo. Truyện ngắn của ông mang chất thơ và tính nhân bản cao. Sông Hương xin giới thiệu một trong những truyện ngắn hay của Rajaratnam.
DANIEL BOULANGERĐó là mùa thu ở Concile, thành Rome mang mọi vẻ Rome và ở đó người ta đã không còn kiếm được nơi cho thuê phòng nữa.
Corrado AlvaroThời gian như muốn chững lại. Hơi nóng vẫn còn hừng hực, bầu trời mờ mờ hơi nước, những con ve kêu rả riết, ở phía tây, chân trời quang hơn, vài cụm mây như bị một nét bút quệt xuống. Cơn mưa hẳn là ở mãi xa nên người ta bắt đầu hái nho.
GABRIEL GARCIA MARQUEZ (COLUMBIA) Ngài nghị sĩ Onesimo Sanchez trước cái chết của ngài có sáu tháng và mười một ngày để đi khi ngài tìm thấy người phụ nữ của đời ngài.
Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.
ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.
IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.