Ba lần gặp Bác

19:57 19/06/2009
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

Lần thứ nhất. Số là vào tháng 9/1957, khi tôi là sinh viên mới vào học năm đầu khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ban giám hiệu báo trước cho tôi một ngày, nói là phải ăn mặc tươm tất để đi dự một cuộc họp quan trọng.

Thì ra là Bác Hồ muốn gặp học sinh và sinh viên miền hai ba năm nay tập kết ra Bắc và đang học tại các trường ở Hà Nội, Hà Đông, Hà , Sơn Tây. Lòng thương yêu và quan tâm của Bác rất sâu sắc khi Bác nghĩ đến những thanh thiếu nhi đang xa miền Nam, xa nhà, xa gia đình thân yêu, chưa quen lạnh rét và cách sống ở miền Bắc. Mà nghe nói lúc đó có nhiều thiếu niên ở miền Nam, ra nhớ nhà lắm, ngày đêm khóc luôn, rồi quậy phá không chịu đi học, đòi trở về Nam nữa.

Chúng tôi vào ngồi trong một gian phòng học rộng của trường trung học Phan Đình Phùng (Hà Nội), chừng 40, 50 em, đại biểu cho các trường miền Nam đã có mặt.

Bác và một số đồng chí lãnh đạo đi vào. Xúc động làm sao khi thấy Bác, thấy dáng người của Bác, bộ áo quần kaki màu vàng hơi cũ, đôi dép lốp nơi chân mặc dù đã bắt đầu vào thu. Đôi mắt Bác sáng, chòm râu bạc lưa thưa. Tất cả chúng tôi đứng dậy, cung kính, im lặng, lắng chờ.

Bác đi một vòng xuống đến các hàng ghế chúng tôi ngồi, tay Bác thoa vào đầu, vào vai mấy bạn ngồi trước, đưa mắt lướt nhìn mọi người, không sót một ai. Bác hiền từ và gần gũi làm sao. Sung sướng thay, tôi ngồi hàng ghế đầu, được Bác sờ vào đầu, tôi run lên vì xúc động. Từ Cách mạng tháng Tám 1945, được thấy ảnh Bác đầu tiên, 12 năm sau, ngày hôm nay, giờ phút cao quí này được thấy Bác, lòng nào không sung sướng.

Bác đứng trước một cái bàn, có micro. Câu đầu tiên Bác hỏi:

- Trời bắt đầu lạnh, các cháu có rét không?

- Thưa Bác, có ạ, tất cả đồng thanh đáp.

- Các cháu đừng lo, Ban Thống nhất và Bộ Giáo dục sẽ lo áo ấm cho các cháu.

Tôi ngước nhìn lên áo Bác, chiếc áo kaki của Bác vẫn còn mỏng lắm.

Bác bắt đầu hỏi chuyện học hành, chuyện ăn ở. Bác đã theo dõi và biết trước khá đầy đủ. Bác nói to hướng về mọi người:

- Bác nghe có nhiều cháu ra đây, nhớ cha mẹ trong nhiều lắm. Bác rất thương, nhưng các cháu cố gắng chịu đựng. Thương nhớ cha mẹ nhiều thì phải lo học. Đó là làm cho cha mẹ vui. Các cháu học để thành cán bộ, thành người tài, làm cho nước nhà mau thống nhất, các cháu sẽ sớm về đoàn tụ gia đình.

Trong lớp học sinh ngồi dưới, có cháu bật khóc. Bác chạy xuống ân cần vỗ về an ủi, giọng Bác cũng đượm buồn.

Bác lại lên bàn, tiếp tục nói:

- Dù có nhớ nhà, các cháu đều phải cố gắng học. Bác nghe một số cháu bỏ học, nằm nhà, các cháu cố gắng lên, không làm như vậy. Lại nghe một số cháu hay quậy phá: ra vườn, trộm sắn khoai về nấu nướng… Bác quay sang các vị lãnh đạo Bộ Giáo dục: phải cho các cháu ăn no, mặc ấm, không để các cháu làm những việc bậy bạ. Đó là trách nhiệm của các chú.

Chúng tôi càng vô cùng xúc động. Nước mắt tôi chảy oà khi nghĩ đến sự quan tâm chi li sâu sắc của một vị lãnh tụ trong đêm đầu thu này đã thương yêu chúng tôi như con cháu của Bác. Tôi đứng dậy, nói không nên lời:

- Thưa bác, chúng cháu xin vâng lời Bác.

Và tất cả các bạn cùng đứng dậy, reo to lên:

- Xin vâng lời Bác.

Bác vui sướng, mỉm cười. Mà thấy như Bác đang đưa tay lên lau nước mắt. Xúc động ngập tràn, Bác bước ra, vẫy tay chào tất cả chúng tôi. Im lặng, dõi theo chân Bác, dưới trời sao hôm ấy, mọi người như được tiếp thêm sức mạnh.

Lần thứ hai. Đó là vào dịp Đại Hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3 vào tháng 5 năm 1962. Lúc ấy, tôi là chuyên viên Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng được đến dự để theo dõi Đại hội này.

Thật là một Đại hội lịch sử, lớn lao, sau cuộc Đại hội Văn nghệ toàn quốc 1948 trong rừng sâu Việt Bắc, thời kháng chiến chống Pháp. Đại hội có 500 đại biểu, đủ mặt các lão làng và anh hào trong các ngành văn học và nghệ thuật Nam Trung Bắc, đủ các vùng miền, các dân tộc. Thấy như có đủ các bác, các anh chị rạng danh tên tuổi đang về đây: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài (văn học), Tám Danh, Ba Du, Cả Tam, Trùm Thịnh (sân khấu), Trần Văn Cẩn, Trần Văn Lắm (mỹ thuật), Khánh Dư, Hồ Văn Lái (điện ảnh) và nhiều vị ở nhiều ngành khác; phần lớn nay đã là người thiên cổ.

Bác Hồ đến không được báo trước. Bác cùng với các anh Trường Chinh, Tố Hữu đi từ phía sau Nhà hát lớn Hà Nội đến với Đại hội. Tất cả đứng dậy vỗ tay hồi lâu, râm ran. “Bác Hồ đến, Bác Hồ đây rồi”, mọi người cũng reo lên.

Vẫn rất giản dị với bộ áo quần kaki, lần này có vẻ sáng hơn nhưng đôi chân vẫn đôi dép cao su đen, mắt Bác đảo quanh một vòng từ đầu đến cuối. Bác tươi cười đứng lên trước micro nói với toàn thể đại biểu. Bác khen những cố gắng lớn vừa rồi của văn nghệ sĩ, những tác phẩm tốt mới ra đời. Nhưng Bác cũng đề nghị tất cả phải nỗ lực sáng tạo nhiều hơn nữa để có nhiều tác phẩm xứng với thời đại, với cuộc đấu tranh kiên cường ở miền và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Bác đề nghị với tất cả viết nhiều hơn về người tốt việc tốt. Bác nhắc là muốn có nhiều tác phẩm hay, văn nghệ sĩ phải có cái tâm và cái tài. Bác kể chuyện lúc ấy, những năm 1920, Bác ở Paris (Pháp), để nuôi sống, Bác cũng được mời đi đóng kịch. Bác nói đại ý:

- Đóng kịch ở Pari khó lắm. Người ta giao cho Bác đóng vai một người trẻ tuổi hầu bàn đem cà phê đến cho khách trong một tiệm. Họ nhắc Bác phải đi đứng nhẹ nhàng, ly cà phê phải cầm nhẹ nhàng ra làm sao, đến đưa trước mặt khách trịnh trọng như thế nào để khách vui, bấm ngón tay vào má cậu trẻ và cười thì mới đạt - Bác phải tập nhiều lần và Bác đã đóng đạt vai đó, họ thưởng cho Bác mấy france.

Tất cả Đại hội chăm chú theo dõi, thấy Bác hồn nhiên thân quen như người nhà, nói chuyện rất vui, lắm lúc cùng cười ồ với Bác. Chúng tôi, những anh em văn nghệ sĩ trẻ rất cảm phục về trí thông minh, sự hiểu biết sâu sắc của Bác về giới văn nghệ, cách nói vui tươi, dí dỏm, hay đùa, nhất là cách diễn tả ngắn ngọn, cụ thể, dễ hiểu của Bác.

Chủ tịch Đoàn Đại hội đứng lên đáp từ vô cùng cảm ơn Bác. Tất cả đứng lên, có người chạy lên sân khấu mong được đứng gần, được chụp ảnh với Bác. Bác lẳng lặng, nhẹ nhàng vượt qua. Còn nhớ, chúng tôi cùng với Trà Giang, Chu Thuý Quỳnh chạy theo sau lưng Bác, mong được nói chuyện với Bác. Ra chừng thông cảm, Bác vẫy tay và chào tạm biệt chúng tôi.

Lòng thương của người cha già đối với văn nghệ sĩ, mùa tới chắc sẽ sai hoa kết quả đây. Thật vậy.

Lần thứ ba lại là lần gặp Bác được lâu, nghe Bác nói được nhiều, tôi có nhiều ý nghĩ sâu sắc nhất về Bác.

1966 - 1967. Những năm chiến tranh ác liệt và bao nhiêu chiến công anh hùng của quân dân miền . Những năm tháng chiến đấu dũng cảm của quân dân miền Bắc chống trả lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Vẫn là chuyên viên Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Những năm đó, tôi có nhiều lần lên công tác ở trọng điểm A1 đường mòn Hồ Chí Minh, nhất là ở Quảng Bình. Được ở lại đó nhiều ngày, được tiếp xúc với nhiều cán bộ và Thanh niên xung phong, tôi về báo cáo lại với đồng chí Tố Hữu, Bác Hồ được biết và hôm ấy, ngày 12/1/1967, đồng chí Tố Hữu, tôi và một số đồng chí ở Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đưa 4 nữ chiến sĩ thanh niên xung phong Quảng Bình đến thăm Bác.

Cuộc gặp gỡ xúc động và lịch sử biết bao. 7giờ 30 tối, xe đưa chúng tôi đến gần nhà sàn của Bác ở Ba Đình. Bước xuống, đi vào nhà, ngỡ ngàng và vui mừng thay, chúng tôi đã thấy có Bác ngồi trong đó rồi. Năm qua, Bác bị ốm nhiều nhưng Bác vẫn đề nghị với các đồng chí trong Bộ Chính trị để Bác vào Nam để cùng chiến đấu với bà con trong đó. Bác phải nhịn không hút thuốc trong thời gian đó. Mỗi ngày Bác phải tập đi bộ trên con đường dừa, gần nhà Bác ở, vai đeo ba lô có nhiều viên gạch khá nặng. Bác rất quyết tâm nhưng đường xa, gian khổ, Bộ Chính Trị phải can, Bác không vào được.

Nhiều chuyện về Bác, kể cả bệnh nặng của Bác, một số chúng tôi đều biết nên lúc này nhìn Bác hơi gầy, dáng không khoẻ lắm làm chúng tôi buồn buồn. Bác ngồi đó trên một chiếc ghế, ngồi sẵn trước khi chúng tôi vào, chắc là có các đồng chí đưa Bác vào để chúng tôi khỏi lo lắng khi thấy Bác di chuyển. Chúng tôi ồ lên: “Bác! Bác!”. Bác ngồi đó, tuy yếu nhưng dáng vui tươi, mỗi chúng tôi đi qua, Bác đưa tay ra bắt, riêng với các nữ thanh niên xung phong thì Bác trìu mến nhìn kỹ. Bác bắt tay lâu, những bàn tay lắc lắc.

Trên bàn thấy có tấm biển có chữ “khách”. Theo Bác, đây là khách, có khi là khách đặc biệt của Bác. Chúng tôi ngồi gần quanh Bác, chị Nguyễn Thị Huế, quê ở Tuyên Hoá, Quảng Bình, đội trưởng. Năm sau được bầu là Anh hùng và các bạn nữ Thanh niên xung phong khác được Bác cho ưu tiên ngồi gần Bác nhất. Bác đón nhận bó hoa của mấy chị em, vui sướng nở một nụ cười. Một số đồng chí ở Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đang đứng phía sau tươi cười nhìn lên Bác. Bác ngồi đó, vô cùng giản dị, nét mặt quá đỗi hiền từ, tay để lên bàn, nhưng thấy lần này tóc Bác bạc quá rồi. Bảy mươi bảy tuổi rồi, Bác đang mệt, đang yếu, giữa các cuộc ném bom bắn phá ác liệt ở miền Bắc, ngay cả giữa lòng Hà Nội, thế mà người cha vẫn muốn gặp đàn con thân thương.

Bác lại lướt nhìn trước mắt, hướng tầm nhìn sâu vào các nữ chiến sĩ anh hùng trên đường mòn Hồ Chí Minh nơi mà Bác biết rõ là trọng điểm ác liệt nhất của đường mòn.

Chị Nguyễn Thị Huế bằng giọng rắn chắc cố nói chậm báo cáo Bác nghe rõ công việc của thanh niên xung phong trong đó. Bác lắng nghe, vô cùng chăm chú, đôi mắt luôn nhấp nháy, vầng trán rộng ưu tư, lâu lâu Bác dừng lại hỏi nhẹ đôi điều, chị Huế vẫn tiếp tục thưa chuyện với Bác.

Bác hỏi kỹ các chị về việc phá bom mìn, san lấp hố bom, dựng cờ đỏ cắm lên báo hiệu cho xe qua, ngày và đêm, dưới tầm pháo sáng, có ngày hàng mấy chục hố bom sâu, cái chết đã sẵn sàng nhưng vẫn quyết tâm san lấp cho kỳ được.

Bác Hồ rất chăm chú, quá xúc động, giọng ân cần nhỏ nhẹ hỏi thêm về cách phòng tránh máy bay bom đạn và nhắc nhở các cháu tuy rất dũng cảm nhưng phải luôn luôn đề phòng. Dáng Bác nghĩ ngợi lắm, vầng trán nhiều ưu tư, có lúc lắng thở để nghe được nhiều hơn, nghe lấy từng lời. Bác nhìn kỹ vào các cô gái trước mặt, nói trầm hùng: “- Các cháu anh hùng lắm, vô cùng dũng cảm, quả thật là những Bà Trưng Bà Triệu thời nay”. Nhưng rồi lại đanh thép: “- Các cháu! Không còn cách nào khác hơn, ta phải đánh, kiên quyết đánh, phải làm cho đường mòn thông suốt, ngàn bộ đội, ngàn vũ khí sẽ vào , thắng lợi hoàn toàn sẽ đến”.

Bác còn thân thương hỏi các chị: Trên núi mùa đông rét buốt lắm, các cháu có đủ áo ấm không? Các chị trả lời đã có áo trấn thủ. Bác nhìn lên phía đồng chí Tố Hữu và chúng tôi như nhắc khéo: đó là nhiệm vụ của các chú.

Bác hỏi như người cha:

- Ăn ngày mấy bữa?

- Dạ ba.

- Có no không?

- Dạ no.

- Tắm rửa thế nào?

- Dạ có, đêm khuya phải đến các suối xa, qua ánh pháo sáng xanh vàng của giặc.

- Bác nhắc các cháu dù có khó khăn, vẫn phải gìn giữ vệ sinh.

Có mấy dĩa bánh kẹo ở bàn bên, các chị cần vụ đem tới, Bác tự tay đưa các chị. Nhưng nào có ai ăn được. Tất cả điều hướng về cha già đang ngồi trước mặt, nhìn ngắm người, vui sướng hôm nay và lo lắng cho sức khỏe Bác ngày mai. Bác nói:

- Nếu các cháu không ăn hết thì nên lấy thêm, đem về cho các bạn trong đó, nói đây là quà của Bác. Bác gởi lời thăm tất cả các cán bộ và chiến sĩ trong đó. Nói với tất cả là Bác còn khỏe, cùng với toàn dân chờ ngày thắng lợi hoàn toàn.

Mỗi người chúng tôi, món quà hương vị thấm sâu của Bác trên tay, vô cùng tiếc nuối là cuộc gặp diễn ra quá nhanh. Bác ngồi đó, lại bắt tay từng người, chúng tôi đi qua, giây giây dừng lại, cố dừng lại lâu hơn, cố ngoái cổ nhìn lại, thu hình bóng của Bác vào sâu tâm hồn mình, tưởng như không bao giờ rời được.

Nhưng rồi phải tạm xa Bác, lòng thương Bác vô cùng.

Hôm nay, tạm biệt Bác và hai năm sau trên vườn hoa Ba Đình này, bao nhiêu nước mắt của chúng tôi và của mọi người lại tuôn rơi khi được báo tin Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta. Sáng ấy, 2 tháng 9 năm 1969, hai năm sau ngày gặp Bác lần thứ ba, sau lễ mít tinh mừng ngày Độc lập ở vườn hoa Ba Đình vắng bóng Bác trên lễ đài, lòng chúng tôi thấp thỏm. Bốn giờ chiều, qua làn sóng rađiô báo tin Bác ốm nặng. Ôi thôi! Và ngày mai, tin buồn da diết làm sao! Bác Hồ đã vĩnh biệt ra đi!

Chúng tôi cùng với đoàn người đông đảo nước mắt tuôn rơi. Có nhiều khách quốc tế lặng lẽ đi qua quan tài, thấy Bác nằm yên, hiền từ làm sao, vẫn bộ ka ki ấy, vẫn đôi dép cao su ấy mà khi đồng chí Chủ tịch Cu Ba Phi đen Castro đến viếng Bác, đã chỉ vào đôi dép ấy nói lên câu nói nổi tiếng: “Đôi dép kia đã đi khắp thế giới”.

Bác ơi! Bác có đi xa đâu, Bác rất gần, Bác trong con, trong cháu, Bác muôn đời, muôn sức mạnh của cháu và của toàn dân, của ba lần gặp Bác và của muôn triệu lần.

L.T.S
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.